Y tế - Điểm sáng trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Hợp tác y tế giữa Việt Nam và Nhật Bản đang phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những điểm sáng trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.
Y tế - Điểm sáng trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản

Mối quan hệ bền chặt

Theo Bộ Y tế Việt Nam, trong hợp tác quốc tế, Việt Nam đặc biệt coi trọng sự hỗ trợ từ Nhật Bản. Nhật Bản luôn là một trong những nhà tài trợ ODA cho ngành y tế Việt Nam. Quan hệ hợp tác y tế giữa hai nước không chỉ dừng lại ở các dự án riêng lẻ mà đã được nâng tầm thành nền tảng chiến lược, bền vững.

Trên cơ sở đó, nhiều dự án hợp tác trọng điểm đã được triển khai ở cả ba lĩnh vực trụ cột: xây dựng cơ sở hạ tầng y tế hiện đại, cung cấp trang thiết bị y tế tiên tiến, và nâng cao năng lực nguồn nhân lực.

Hiện nay, nhiều dự án cụ thể đang được triển khai như: Dự án “Nâng cao năng lực phục hồi y tế và đảm bảo an ninh y tế trong và sau đại dịch COVID-19”; Dự án “Đẩy mạnh công tác phòng chống bệnh viêm gan vi rút”; Dự án viện trợ trang thiết bị y tế cho Bệnh viện K cơ sở Quán Sứ và cho 4 Bệnh viện Trung ương; Dự án “Tăng cường hệ thống phát triển năng lực cho nhân viên y tế thông qua khám chữa bệnh từ xa” (Telemedicine); và đặc biệt là Dự án xây dựng Bệnh viện Chợ Rẫy Hữu nghị Việt – Nhật (Cơ sở 2), một biểu tượng hợp tác y tế quy mô lớn giữa hai quốc gia.

Tại buổi tọa đàm (talk show) do Báo Tài chính-Đầu tư tổ chức ngày 15 tháng 10, Tiến sĩ Đặng Quang Tấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Y tế chia sẻ: “Việt Nam mong muốn doanh nghiệp Nhật Bản chia sẻ chuyên môn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý để thúc đẩy hợp tác toàn diện trong dược phẩm, thiết bị y tế, khám chữa bệnh, y học cổ truyền và an toàn thực phẩm, nhằm mang lại sản phẩm, dịch vụ y tế chất lượng cao, giá hợp lý, phục vụ sức khỏe nhân dân và phát triển bền vững ngành y tế.”

Takeda tiên phong phát triển các giải pháp đổi mới, hỗ trợ người dân bảo vệ sức khỏe trước các bệnh truyền nhiễm, như vắc-xin phòng sốt xuất huyết Dengue. Ảnh: Takeda

Takeda tiên phong phát triển các giải pháp đổi mới, hỗ trợ người dân bảo vệ sức khỏe trước các bệnh truyền nhiễm, như vắc-xin phòng sốt xuất huyết Dengue. Ảnh: Takeda

Song song với các chương trình hợp tác cấp chính phủ, Bộ Y tế cũng khuyến khích tăng cường hợp tác trực tiếp giữa các bệnh viện, trường đại học y dược và viện nghiên cứu của hai nước, nhất là trong đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học, trao đổi chuyên gia và chuyển giao công nghệ.

Tại toạ đàm, các diễn giả cũng nhấn mạnh, trong hành trình hợp tác hơn 5 thập kỷ vừa qua, cộng đồng doanh nghiệp đã và đang đóng vai trò quan trọng. Đặc biệt, trong lĩnh vực y tế, các tổ chức và doanh nghiệp Nhật Bản đã chung tay cùng Việt Nam nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cho người dân địa phương, qua đó góp phần làm sâu sắc thêm quan hệ song phương. Trong đó, có các tập đoàn lớn như Takeda, Taisho, (Daiichi Sankyo)… đang tăng cường sự hiện diện tại Việt Nam và sẽ tiếp tục là cầu nối góp phần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hai nước nói chung, và trong lĩnh vực y tế nói riêng.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Benjamin Ping, Tổng Giám đốc Takeda Việt Nam, cho biết, việc hợp tác nhằm nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam hoàn toàn phù hợp với chiến lược phát triển của Takeda, tập trung vào ba trụ cột: người bệnh, con người và hành tinh.

Về khía cạnh người bệnh, trong lĩnh vực bệnh hiếm, từ năm 2021 đến 2024, Takeda đã phối hợp với Trung tâm Quốc gia về Sức khỏe và Y tế Toàn cầu (NCGM) của Nhật Bản và Hội Hen – Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng TP.HCM triển khai sáng kiến tăng cường năng lực chẩn đoán và điều trị bệnh phù mạch di truyền (HAE), đào tạo hơn 7.500 nhân viên y tế, sàng lọc 100 người và phát hiện kịp thời 35 người bệnh HAE tại Việt Nam. Bên cạnh đó, Takeda cũng hợp tác với Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương thông qua Biên bản ghi nhớ (MOU) nhằm tổ chức các khóa đào tạo và hội thảo nâng cao năng lực quản lý, chẩn đoán và điều trị bệnh lý huyết học.

Về khía cạnh con người, Takeda xây dựng môi trường làm việc đa dạng, hòa nhập và chú trọng phát triển nhân lực chất lượng cao, [A1] [A2] đồng thời tạo cơ hội cho nhân sự tại Việt Nam phát triển cả trong nước lẫn quốc tế. Doanh nghiệp đồng thời thúc đẩy đào tạo chuyển đổi số, đặc biệt trong ứng dụng trí tuệ nhân tạo, phù hợp với định hướng đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia của Việt Nam.

Ở khía cạnh bảo vệ hành tinh, Takeda tập trung ứng phó với bệnh sốt xuất huyết – một trong những thách thức y tế đang ngày càng nghiêm trọng do biến đổi khí hậu.

“Chúng tôi đang nỗ lực phối hợp với Chính phủ và các bên liên quan nhằm hướng tới mục tiêu của WHO: không còn ca tử vong do sốt xuất huyết vào năm 2030,” ông Benjamin Ping chia sẻ.

Takeda đang góp phần tăng cường năng lực đội ngũ y tế trong công tác quản lý, chẩn đoán và điều trị sốt xuất huyết, nâng cao nhận thức cộng đồng và nỗ lực mở rộng khả năng tiếp cận vắc-xin cho người dân Việt Nam. Đây cũng loại vắc-xin sốt xuất huyết đầu tiên được Bộ Y tế cấp phép tại Việt Nam vào năm 2024, và hiện đã được phê duyệt tại 41 quốc gia với hơn 20 triệu liều được phân phối toàn cầu.

Kỳ vọng những cột mốc mới

Theo ông Tấn, tầm nhìn phát triển y tế của Việt Nam hiện nay tập trung vào đổi mới sáng tạo, công nghệ cao, nâng cao chất lượng dịch vụ, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, chuyên môn và thế mạnh của các doanh nghiệp Nhật Bản có thể đóng góp trên nhiều lĩnh vực.

Cụ thể, trong lĩnh vực dược phẩm, Bộ Y tế xác định đổi mới sáng tạo và công nghệ là chìa khóa đột phá; Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, IoT mở ra tiềm năng trong nghiên cứu, sản xuất thuốc, kiểm tra chất lượng và quản lý chuỗi cung ứng. Việt Nam mong muốn hợp tác với Nhật Bản trong nghiên cứu chung, thử nghiệm lâm sàng, sản xuất thuốc – vắc xin – sinh phẩm, nguyên liệu làm thuốc và xây dựng các trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng quốc tế.

Với thiết bị y tế, Việt Nam muốn tận dụng chuyên môn của doanh nghiệp Nhật Bản để tiếp cận công nghệ và thiết bị tiên tiến, cập nhật tiến bộ kỹ thuật trong chẩn đoán, điều trị. Doanh nghiệp Nhật Bản có thể hỗ trợ sản xuất trong nước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, hỗ trợ xây dựng thể chế, chính sách và hệ thống kiểm định, hiệu chuẩn thiết bị y tế. Việt Nam cũng khuyến khích hợp tác công – tư để phát triển y tế tư nhân, nâng cao chất lượng dịch vụ.

Trong khám chữa bệnh, Việt Nam đang đẩy mạnh bệnh án điện tử, HIS, PACS, Telemedicine. Nhật Bản có thế mạnh về công nghệ và kinh nghiệm để hợp tác phát triển bệnh viện thông minh, liên thông dữ liệu, đào tạo nhân lực, triển khai y tế số, nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị.

Với y học cổ truyền, Việt Nam coi đây là thành phần quan trọng của hệ thống y tế, hướng tới hiện đại hóa, chuẩn hóa và kết hợp với y học hiện đại. Doanh nghiệp Nhật Bản có thể hỗ trợ nghiên cứu, phát triển dược liệu, chuẩn hóa và kiểm định chất lượng theo GMP, GSP, GACP-WHO, đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ sản xuất và phát triển sản phẩm từ dược liệu, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm. Hợp tác còn có thể mở rộng sang du lịch y tế, đưa sản phẩm và dịch vụ YHCT Việt Nam ra quốc tế.

Trong an toàn thực phẩm và thực phẩm chức năng, Việt Nam đang cải cách thể chế, sửa Luật ATTP, xây dựng Chiến lược quốc gia tầm nhìn 2040, tập trung tiền kiểm, hậu kiểm, kiểm soát quảng cáo và kinh doanh trên sàn thương mại điện tử. Việt Nam có lợi thế tự nhiên và nền YHCT phát triển, giúp ngành TPCN đa dạng, xuất khẩu tới gần 30 quốc gia. Trong thời gian tới, Việt Nam mong muốn Nhật Bản hỗ trợ khoa học, công nghệ để nâng cao chất lượng, phát triển sản phẩm đạt chuẩn quốc tế.

Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Tài chính, Nhật Bản là đối tác phát triển chủ chốt trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng y tế, quản lý bệnh viện và đào tạo cán bộ y tế tại Việt Nam do nhu cầu chăm sóc sức khỏe chất lượng cao đang tăng nhanh chóng tại Việt Nam và công nghệ y tế nổi tiếng toàn cầu cũng như chuyên môn của Nhật Bản trong việc giải quyết vấn đề già hóa dân số.

Đầu tư của Nhật Bản đang tăng tốc trong hai lĩnh vực chính. Thứ nhất, cơ sở hạ tầng và Trang thiết bị: Các đối tác Nhật Bản, thường được JICA hỗ trợ, tiếp tục đầu tư vào các bệnh viện trọng điểm (như Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện Ung bướu Trung ương), góp phần nội địa hóa các sản phẩm chăm sóc sức khỏe chất lượng cao và hiện đại hóa trang thiết bị y tế.

Thứ hai là y tế số, chuyển đổi số cho ngành y tế, tập trung vào hồ sơ sức khỏe điện tử, y tế từ xa và việc sử dụng AI trong chẩn đoán và hệ thống y tế từ xa có thể đảm bảo chăm sóc hiệu quả và dễ tiếp cận hơn ở các vùng sâu vùng xa.

“Trong bối cảnh phát triển nhanh của ngành y tế Việt Nam, cùng với những nỗ lực của Chính phủ, của ngành y tế, chúng tôi rất tin tưởng và mong muốn Nhật Bản sẽ tiếp tục đồng hành và hỗ trợ các hoạt động y tế tại Việt Nam góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế và thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành y tế Việt Nam,” ông Tấn nhấn mạnh.

Thủy Nguyễn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục