Xuất khẩu tôm 6 tháng đầu năm đạt 1,5 tỷ USD

0:00 / 0:00
0:00
Kim ngạch xuất khẩu tôm 6 tháng đầu năm đạt 1,5 tỷ USD (trong đó, tôm sú đạt 200 triệu USD, tôm thẻ chân trắng đạt 1,3 tỷ USD).
Ước kim ngạch xuất khẩu tôm 6 tháng đầu năm đạt 1,5 tỷ USD (trong đó, tôm sú đạt 200 triệu USD, tôm thẻ chân trắng đạt 1,3 tỷ USD). Ước kim ngạch xuất khẩu tôm 6 tháng đầu năm đạt 1,5 tỷ USD (trong đó, tôm sú đạt 200 triệu USD, tôm thẻ chân trắng đạt 1,3 tỷ USD).

Xuất khẩu tôm 6 tháng đầu năm đạt 1,5 tỷ USD

Sáng 16/7, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) tổ chức Hội nghị trực tuyến về giải pháp phát triển ngành tôm năm 2021 và triển khai quyết định 339 ngày 11/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045.

Tại Hội nghị, Tổng cục Thủy sản đã trình bày báo cáo về “Đánh giá hiện trạng và giải pháp trọng tâm của ngành tôm năm 2021”.

Theo đó, sáu tháng đầu năm 2021, sản lượng tôm nước lợ đạt 371.000 tấn (tăng 12% so với cùng kỳ năm 2020), trong đó sản lượng tôm sú đạt 113.000 tấn và tôm thẻ chân trắng đạt 258 nghìn tấn.

Giá tôm nguyên liệu tại ĐBSCL hiện giảm do nguồn cung dồi dào và do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên khó khăn trong thu mua, vận chuyển.

Tại Bạc Liêu, giá tôm sú ướp đá cỡ 20 con/kg giảm 15.000 đồng/kg so với tháng trước xuống còn 250.000 đồng/kg.

Ước kim ngạch xuất khẩu tôm 6 tháng đầu năm đạt 1,5 tỷ USD (trong đó, tôm sú đạt 200 triệu USD, tôm thẻ chân trắng đạt 1,3 tỷ USD).

Tuy nhiên, ngành nuôi tôm vẫn gặp một số tồn tại, khó khăn, đặc biệt là việc cấp mã số xác nhận đăng ký cơ sở nuôi đạt kết quả chưa cao. Tình trạng ô nhiễm chất thải còn xảy ra phổ biến, nhất là trong nuôi thâm canh, siêu thâm canh. Hạ tầng kỹ thuật yếu kém, công nghệ nuôi chưa cao.

Tôm bố mẹ phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu và khai thác từ tự nhiên, trong nước mới chỉ cung cấp được một phần, chưa chủ động trong sản xuất. Đặc biệt, vào mùa cao điểm thả giống, vùng nuôi trọng điểm tại ĐBSCL vẫn còn số lượng lớn tôm giống nhập từ các tỉnh Nam Trung bộ không có nguồn gốc, chưa qua kiểm dịch.

Vấn đề tồn tại nữa của ngành nuôi tôm, đó là giá thành sản xuất tôm ở nước ta vẫn còn cao hơn so với các nước trong khu vực. Nguyên nhân là do thức ăn nuôi tôm vẫn đang chiếm lỷ lệ cao trong giá thành sản xuất (khoảng 65% giá thành nuôi tôm công nghiệp).

Ngoài ra, còn một số thách thức mới về xuất khẩu như sự thay đổi quy định kiểm dịch đối với sản phẩm nhập khẩu ở nhiều quốc gia, những cảnh báo về an toàn thực phẩm.

Một số thị trường nhập khẩu chính thủy sản của Việt Nam đã có những thay đổi trong chứng nhận an toàn thực phẩm, như Hàn Quốc, sản phẩm tôm phải đáp ứng quy định về xử lý nhiệt (tôm nấu chín) mới được miễn kiểm dịch.

Tuy nhiên, thời gian xử lý nhiệt theo quy định của Hàn Quốc dài, ảnh hưởng không nhỏ đến màu sắc, mùi vị... của sản phẩm. Còn thị trường Brazil quy định chế độ xử lý nhiệt khắt khe hơn rất nhiều so với hướng dẫn của Tổ chức Thú y thế giới.

Mục tiêu duy trì tốt sản lượng và phát triển thị trường

Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ NNPTTN Phùng Đức Tiến cho biết: Năm 2021, ngành tôm Việt Nam tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như hạn hán, xâm nhập mặn; thời tiết khí hậu bất thường, tiềm ẩn rủi ro, nguy cơ phát sinh dịch bệnh; diễn biến dịch Covid-19 và cạnh tranh thương mại quốc tế khó lường.

Thứ trưởng Bộ NNPTTN Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, năm 2021 lĩnh vực thủy sản cần giải quyết các bất cập của ngành tôm hiện nay về quy mô, sản lượng và giá thành...
Thứ trưởng Bộ NNPTTN Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, năm 2021 lĩnh vực thủy sản cần giải quyết các bất cập của ngành tôm hiện nay về quy mô, sản lượng và giá thành...

Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn, thách thức, ngành tôm nước ta đang có cơ hội với nền tảng về tiềm năng, lợi thế tự nhiên, với đội ngũ doanh nghiệp có hơn 20 năm kinh nghiệm từ khâu sản xuất đến chế biến, xuất khẩu.

Sự quyết tâm vào cuộc đồng bộ của toàn hệ thống chính trị từ Chính phủ, Bộ, ngành, chính quyền địa phương đến doanh nghiệp, người dân sẽ tiếp tục tạo đà cho sản xuất phát triển. Đặc biệt, các Hiệp định tự do thương mại mà Việt Nam ký kết sẽ mở rộng cơ hội về thị trường cho sản phẩm, nhất là tôm, cá tra.

Ngày 11/3/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 339/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh: “Tôi muốn nhân cơ hội này để các đồng chí nắm chắc, bám sát quan điểm, định hướng, mục tiêu của Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để chỉ đạo, phát triển sản xuất thủy sản tại địa phương theo đúng định hướng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đề ra”.

Để thực hiện “mục tiêu kép” của ngành thủy sản, bao gồm của ngành tôm, chúng ta cần nỗ lực hơn nữa, quyết tâm cao hơn nữa, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, mục tiêu đầu tiên cần cố gắng là duy trì tốt sản lượng, cung cấp nguyên liệu có chất lượng cao cho chế biến.

Đây là yếu tố quan trọng vì lĩnh vực thủy sản dễ bị tác động bởi thời tiết, đặc biệt trong tình hình hạn hán, xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu như hiện nay và sự cạnh tranh khốc liệt tại các thị trường nhập khẩu.

Mục tiêu tiếp theo là xử lý các vấn đề tồn tại trong chuỗi liên kết như tổ chức sản xuất, chế biến, chiến lược duy trì và phát triển thị trường.

Lĩnh vực thủy sản có 3 trụ cột gồm: khai thác, nuôi trồng và bảo tồn. Ba ngành này sẽ có 3 chương trình và các đề án tại Quyết định số 339. Nếu chúng ta triển khai các chương trình, dự án này với nguồn lực của các địa phương, Chính phủ, Bộ, ngành thì chúng ta sẽ có tốc độ tăng trưởng của ngành thủy sản cao như mục tiêu đã đề ra.

Riêng con tôm, Chính phủ đã giao cho Bộ NNPTNT từ nay đến năm 2025 phải đạt kim ngạch xuất khẩu tôm 10 tỷ USD. Trong khi đó, tổng sản lượng thủy sản đến năm 2030 phải đạt 9,8 triệu tấn, trong đó 2,8 triệu tấn khai thác, còn lại là nuôi trồng. Và riêng nuôi trồng thì tôm và cá tra là hai trụ cột rất quan trọng.

Cũng theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, năm 2021 lĩnh vực thủy sản cần giải quyết các bất cập của ngành tôm hiện nay về quy mô, sản lượng và giá thành; củng cố, phát triển ngành tôm, tạo đà phát triển, chuẩn bị những bước xa hơn, bứt phá nhanh hơn trong thời kỳ tới.

Thống nhất hành động trong 3 trục (Chính phủ, doanh nghiệp, người dân) để quyết tâm xây dựng ngành tôm thành một ngành hàng lợi thế, mang lại giá trị cao nhất và có tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Riêng diện tích nuôi tôm của Việt Nam hiện nay khoảng 740.000 ha. Muốn tăng diện tích nuôi trồng để tăng sản lượng là rất khó. Thậm chí, theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản, diện tích nuôi tôm năm nay giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2020.

Như vậy, muốn tăng năng suất thì cần phải nâng cao chất lượng, hạ giá thành con giống, thức ăn, kiểm soát môi trường nuôi và thú y phòng bệnh, nâng cao chất lượng tôm tại khu vực nuôi.

Đồng thời, cần đẩy mạnh chế biến với công nghệ cao, nhiều sản phẩm, nhiều thị trường thì chúng ta mới đạt được mục tiêu Chính phủ giao cho ngành NNPTNT.

Hồ Hạ
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục