Theo lý thuyết này, có 3 loại biến động giá theo thời gian.
Xu thế chính (xu thế cấp 1)
Giống như thủy triều ở đại dương, đây là xu thế giá chứng khoán dài hạn và thường kéo dài từ vài tháng đến vài năm. Nếu mỗi đợt tăng giá liên tiếp đều đạt đến mức cao hơn mức trước đó và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều chỉnh trước, thì xu thế cấp 1 lúc này là tăng giá. Ngược lại, nếu mỗi biến động giảm đều làm cho giá xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để làm cho giá tăng lên đến mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế cấp 1 của thị trường lúc này là giảm giá.
Xu thế trung gian (xu thế cấp 2)
Giống như các đợt sóng, hiện tượng này xảy ra khi giá chứng khoán đi chệch khỏi xu thế chính của nó trong một khoảng thời gian ngắn. Sự chệch hướng này sẽ mất đi khi có sự điều chỉnh đưa giá chứng khoán về với xu thế chính. Nói cách khác, xu thế cấp 2 là những điều chỉnh có tác động làm gián đoạn quá trình vận động của giá theo xu thế cấp 1. Chúng là những đợt suy giảm tạm thời (trung gian) hay còn gọi là những điều chỉnh xuất hiện ở thị trường tăng giá; hoặc những đợt tăng giá hay còn gọi là hồi phục xuất hiện ở thị trường giảm giá.
Các dao động ngắn hạn (xu thế cấp 3)
Giống như những gợn sóng, đây là các dao động hàng ngày của chứng khoán. Theo lý thuyết Dow, bản thân chúng không thực sự có ý nghĩa, nhưng chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian. Thông thường, một biến động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa hai xu thế cấp 2 liên tiếp, đều được tạo thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những dao động ngắn hạn khác nhau.
Những người theo lý thuyết Dow hy vọng xác định được hướng của xu thế giá chính với ghi nhận rằng, xu thế trung gian đôi khi có thể thay đổi theo hướng ngược lại. Họ nhận thấy rằng, một xu thế giá chính của thị trường không diễn ra một cách liên tục, mà thường có sự dao động, bao gồm những đợt giá xuống do một số người đầu tư quyết định bán ra để thu lợi.
Lưu ý
Việc áp dụng lý thuyết Dow hoàn toàn dựa vào khả năng giải thích tình hình thị trường và chịu sự rủi ro đối với tính chính xác của những giải thích này. Mặt khác, lý thuyết Dow hầu như không đưa ra những dấu hiệu về sự thay đổi trong các xu thế trung gian, cũng như không thể chỉ ra hay giúp NĐT xác định nên mua hay bán loại cổ phiếu nào.