Theo Báo cáo, sau đà tăng trưởng mạnh mẽ nhờ xuất khẩu sớm tăng mạnh trong nửa đầu năm, kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ tăng chậm lại trong phần còn lại của năm khi xuất khẩu dần trở về quỹ đạo bình thường. Là nền kinh tế định hướng xuất khẩu, Việt Nam tiếp tục chịu tác động từ triển vọng tăng trưởng toàn cầu suy yếu và nhu cầu giảm từ các đối tác thương mại lớn. Bên cạnh đó, những bất định về chính sách thương mại có thể ảnh hưởng tới niềm tin tiêu dùng và doanh nghiệp.
“Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tiếp tục tăng tốc trong năm 2025 sau đà tăng tốc trong 6 tháng đầu năm 2025. Tuy nhiên, có những thách thức toàn cầu tiếp tục gây áp lực thực sự lên những nền kinh tế định hướng xuất khẩu như Việt Nam do căng thẳng thương mại toàn cầu và những bất định trong chính sách”, bà Mariam J. Sherman nói.
Cụ thể, tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự báo sẽ giảm tốc lần lượt còn 2,3% và 2,4% trong các năm 2025 và 2026 (-0,4 và - 0,3 điểm % so với dự báo vào tháng 1/2025). Lý do là vì tăng trưởng thương mại toàn cầu yếu và căng thẳng địa chính trị kéo dài. Tăng trưởng ở những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, gồm Hoa Kỳ và Trung Quốc, dự kiến sẽ giảm trong nửa cuối năm 2025, tiếp tục tiết chế nhu cầu bên ngoài đối với các sản phẩm của Việt Nam. Bất định chính sách thương mại gia tăng dự kiến sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến lòng tin của nhà đầu tư và người tiêu dùng, các nền kinh tế định hướng xuất khẩu, như Việt Nam, sẽ bị những diễn biến đó gây ảnh hưởng cụ thể.
Nhìn về phía trước, bà Mariam J. Sherman cho biết, dự báo tốc độ phát triển kinh tế sẽ chững lại trong ngắn hạn với tốc độ GDP tăng trưởng thực đạt 6,6% trong năm 2025 và 6,1% trong năm 2026. Khi tăng trưởng xuất khẩu chậm lại, triển vọng này vẫn còn bất định và phụ thuộc vào diễn biến thương mại toàn cầu. Đà tăng trưởng hiện tại không nên được xem là hiển nhiên và có thể suy yếu nếu những cơn gió ngược từ kinh tế toàn cầu và gián đoạn thương mại trở thành hiện thực.
“Những bất định này nhấn mạnh sự cần thiết phải thận trọng, linh hoạt trong chính sách, tìm hướng đi phù hợp trong bối cảnh kinh tế thay đổi”, bà Mariam J. Sherman nói.
|
Ông Sacha Dray, chuyên gia kinh tế WB chia sẻ tại buổi công bố Báo cáo |
Ông Sacha Dray, chuyên gia kinh tế WB khuyến nghị, các chính sách hỗ trợ tăng trưởng và tự phòng vệ với những bất định bên ngoài cần tập trung theo hướng đẩy mạnh đầu tư công, giảm nhẹ rủi ro trong khu vực tài chính và cải cách cơ cấu. Chính sách tài khóa cần tiếp tục đi đầu về hỗ trợ khả năng chống chịu và tăng trưởng trong dài hạn, trong điều kiện dư địa của chính sách tiền tệ đã bị hạn chế do chênh lệch lãi suất kéo dài và áp lực về tỷ giá. Nợ công ở mức thấp của Việt Nam cho phép tăng đầu tư, đặc biệt nhằm thu hẹp khoảng cách thiếu hụt về hạ tầng trong các lĩnh vực năng lượng, logistics và giao thông vận tải, với điều kiện cần chú trọng quản lý đầu tư công đảm bảo hiệu suất, giám sát an toàn nợ và rủi ro.
Cũng theo WB, tăng cường tính ổn định của khu vực tài chính vẫn là yêu cầu sống còn, cần được thực hiện qua yêu cầu cải thiện về tỷ lệ an toàn vốn, nâng cao giám sát an toàn, tăng cường các nhiệm vụ theo quy định pháp luật cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đặc biệt liên quan đến quản lý khủng hoảng và giám sát các tập đoàn;
Là nhu cầu đẩy nhanh cải cách cơ cấu nhằm cải thiện các dịch vụ thiết yếu, thúc đẩy tăng trưởng xanh, tăng cường vốn nhân lực, và đa dạng hóa thương mại để qua đó giúp giảm nhẹ rủi ro toàn cầu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn với khả năng chống chịu.; đẩy mạnh hội nhập các doanh nghiệp tư nhân trong nước vào các chuỗi giá trị toàn cầu và khuyến khích áp dụng công nghệ là cách để tiếp tục hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển.
“Với tỷ lệ nợ công thấp, Việt Nam có dư địa tài khóa dồi dào. Nếu được thực hiện hiệu quả, đầu tư công sẽ vừa giải quyết những bất cập hạ tầng, vừa tạo thêm việc làm. Song song, cần thúc đẩy cải cách để củng cố dịch vụ thiết yếu, xây dựng nền kinh tế xanh, phát triển vốn con người và đa dạng hóa thương mại - đây chính là những yếu tố then chốt giúp Việt Nam giảm thiểu rủi ro toàn cầu và duy trì tăng trưởng dài hạn", bà Mariam J. Sherman nói.
|
Trọng tâm đặc biệt của báo cáo lần này - với tiêu đề “Bứt tốc phát triển nhân tài công nghệ cao của Việt Nam” - nhấn mạnh sự cần thiết của việc xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao để hỗ trợ và tăng tốc hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của đất nước. Để hiện thực hóa tham vọng công nghệ cao và mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam không chỉ thêm một lực lượng sinh viên tốt nghiệp các ngành STEM ngày càng đông đảo, mà còn cần một đội ngũ chuyên gia nòng cốt có khả năng dẫn dắt nghiên cứu, vận hành phòng thí nghiệm, và biến ý tưởng thành các sản phẩm sẵn sàng đưa ra thị trường.
Báo cáo cũng chỉ ra tiềm năng gia tăng chi tiêu cho nghiên cứu & phát triển (R&D) cả từ khu vực công và tư nhân, đi cùng những cải cách rộng hơn cho môi trường kinh doanh. Hiện tổng chi R&D của Việt Nam còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Việt Nam có thể mở rộng đội ngũ giảng viên tiến sĩ để gia tăng số lượng người có trình độ sau đại học và đội ngũ nhà nghiên cứu giỏi, đồng thời đẩy mạnh liên kết giữa đại học - doanh nghiệp -nhà nước nhằm xây dựng lực lượng lao động sẵn sàng cho thị trường, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và lan tỏa tri thức.