Vốn ngoại sẽ chảy mạnh vào ngân hàng nếu room được mở

(ĐTCK) Với tỷ lệ sở hữu dưới 50%, nhà đầu tư nước ngoài khó để có tiếng nói quyết định cùng hội đồng quản trị của các nhà băng Việt trong việc đưa ra chiến lược kinh doanh, đẩy mạnh hoạt động của ngân hàng. Đây chính là lý do khiến nhà đầu tư ngoại còn e ngại bỏ vốn vào ngân hàng trong nước.
"Sức khỏe" của ngành ngân hàng Việt Nam trải qua giai đoạn hơn 4 năm tái cơ cấu nay đã tốt hơn rất nhiều "Sức khỏe" của ngành ngân hàng Việt Nam trải qua giai đoạn hơn 4 năm tái cơ cấu nay đã tốt hơn rất nhiều

“Sức khỏe” ngân hàng nội phân hóa sau tái cơ cấu

Công cuộc tái cơ cấu ngành ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được những thành công nhất định. Cuối năm 2011 và năm 2012, nợ xấu của ngành ở mức khá cao, trong đó một số nhà băng nhỏ, yếu kém còn mất thanh khoản, thế nhưng, trong quá trình đẩy mạnh tái cơ cấu ngành của Ngân hàng Nhà nước cũng như xử lý nợ xấu thông qua giải pháp mua lại nợ xấu từ ngân hàng thương mại của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) đã bước đầu tránh được sự đổ vỡ của một số ngân hàng và đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống.

Nợ xấu của ngành đã giảm từ mức cao hai con số trong năm 2012 xuống còn một con số vào cuối năm 2015 và đến nay được kiểm soát tốt, thậm chí giảm nhanh.

Vấn nạn sở hữu chéo trong ngành ngân hàng cũng từng bước được xử lý một cách thận trọng trong quá trình ngành đẩy mạnh tái cấu trúc. Có thể sẽ có ý kiến cho rằng tái cơ cấu ngành ngân hàng cũng như xử lý sở hữu chéo thời gian qua chưa đạt được mục tiêu đưa ra, song chúng ta cũng cần phải nhìn nhận, sở hữu chéo là vấn đề nhạy cảm, nếu xử lý quá mạnh sẽ vượt quá sức chịu đựng của ngành, của nền kinh tế.

Vì vậy, việc xử lý sở hữu chéo cần được tiến hành một cách thận trọng, hợp lý.

Với khối nợ xấu khổng lồ gần 280.000 tỷ đồng mà VAMC đã “gom” lại từ các ngân hàng, hiện không còn quá lo ngại trong việc xử lý như hai năm trước nhờ sự phục hồi của thị trường bất động sản. Bởi thực tế, các khoản nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam chủ yếu đều có tài sản thế chấp là bất động sản.

Khi bất động sản tăng giá, thanh khoản tốt hơn, các ngân hàng có thể dễ dàng hơn trong việc thương lượng với khách hàng để chuyển nhượng, bán tài sản thế chấp thu hồi nợ.

Nợ xấu ở trong một vài ngân hàng cổ phần vẫn còn khá lớn, nhưng vấn đề nợ xấu này không còn ảnh hưởng đến rủi ro hệ thống, còn nợ xấu của một số ngân hàng tốt thì hiện đã “sạch” và xử lý triệt để.

TS. Lê Anh Tuấn 

Sức khỏe của ngành ngân hàng Việt Nam trải qua giai đoạn hơn 4 năm tái cơ cấu nay đã tốt hơn rất nhiều. Nguy cơ đổ vỡ hay mất thanh khoản trong hệ thống không còn.

Lợi nhuận của các ngân hàng đã phản ánh thực chất năng lực của nhà băng hơn trước kia. Hệ thống ngân hàng được chia ra làm 3 nhóm.

Nhóm 1 là các ngân hàng lớn, nằm trong top đầu đã qua giai đoạn khó khăn của xử lý nợ xấu, kể cả các khoản nợ xấu đã bán cho VAMC. Chẳng hạn Vietcombank, họ đã mua lại các khoản nợ xấu bán cho VAMC trước đây để xử lý, thu hồi và trích lập đầy đủ dự phòng trong năm qua. Các ngân hàng cổ phần lớn hiện sức khỏe đã được cải thiện nhiều so với trước kia.

Nhóm thứ hai là những ngân hàng cổ phần sau top đầu, có lẽ phải mất 2 - 3 năm nữa mới xử lý xong các khoản nợ xấu, trong đó có nợ xấu lớn đã bán cho VAMC những năm qua.

Nhóm còn lại là những ngân hàng nhỏ, yếu kém, khó tránh được nguy cơ “chết lâm sàng”, cần phải đẩy mạnh tái cơ cấu, xử lý để hệ thống được ngày càng lành mạnh.

Thế nhưng, làn sóng M&A nếu có diễn ra trong thời gian tới khó kỳ vọng sôi động hơn. Bởi dòng tiền của các nhà đầu tư trong nước không đủ để mua một ngân hàng.

Còn khả năng một vài ngân hàng lớn phải “ôm” nhà băng nhỏ, yếu kém để đẩy mạnh tái cấu trúc, lành mạnh hệ thống như đã từng có tiền lệ cũng không dễ xảy ra. Bởi không ít ý kiến cho rằng, nếu phải sáp nhập thêm một nhà băng yếu kém sẽ kéo lùi sự phát triển của ngân hàng lớn.

Mối lo ngại này từng xuất hiện cách đây 2 năm khi có một số ngân hàng lớn phải sáp nhập thêm nhà băng nhỏ sẽ kéo lùi nhà băng lớn như: BIDV sáp nhập thêm MHB; Vietinbank cũng đang giai đoạn hoàn tất để sáp nhập thêm PGBank, nhưng điều đó đã không xảy ra. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải nhìn nhận rằng, các ngân hàng được sáp nhập nói trên, hoạt động của họ cũng không quá yếu kém. 

Việc tiếp tục để một ngân hàng lớn phải sáp nhập thêm một ngân hàng nhỏ nữa hay không trong thời gian tới nếu có xảy ra mang tính chất bắt buộc và nhà băng bị sáp nhập yếu sẽ kéo lùi sự phát triển của các nhà băng lớn.

Vốn ngoại chỉ vào khi nới room

Giải pháp thu hút dòng vốn mới trong nước vào các ngân hàng hay sáp nhập ngân hàng yếu vào ngân hàng mạnh để đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc ngành trong thời điểm này đều không khả thi. Nhưng việc thu hút dòng tiền của nhà đầu tư nước ngoài vào ngân hàng Việt cũng không dễ, cho dù đây là lĩnh vực vẫn luôn được nhà đầu tư ngoại quan tâm.

Vì các nhà đầu tư nước ngoài có ý định tham gia vào hệ thống ngân hàng giai đoạn này là phải nắm được quyền kiểm soát với ngân hàng, chứ không còn hào hứng với tỷ lệ sở hữu 20 - 30%, theo kiểu nhà đầu tư tài chính như trước đây. Song tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư ngoại trong ngân hàng nội vẫn bị hạn chế.

Ngân hàng OceanBank đã được bán cho đối tác ngoại, hiện còn 2 ngân hàng 0 đồng nữa là CBank, GPBank 

Định hướng cho giai đoạn tái cơ cấu ngành ngân hàng sắp tới được Ngân hàng Nhà nước cho biết, sẽ tiếp tục đẩy mạnh tái cấu trúc 3 ngân hàng "0 đồng" (OceanBank, CBank, GPBank), DongA Bank, Sacombank sau sáp nhập và một số nhà băng nhỏ yếu kém khác.

Mục tiêu này có đạt được hay không còn phụ thuộc vào ý chí của Chính phủ và từng ngân hàng và thực sự chúng ta có chấp nhận đánh đổi để có một hệ thống ngân hàng vững chắc, nhất là đối với tái cấu trúc 3 ngân hàng "0 đồng". Đánh đổi ở đây có nghĩa là các ngân hàng có muốn bán 100% vốn để nhà đầu tư nước ngoài nắm quyền chi phối, kiểm soát.

Thực tế, thời gian qua, khi ngành ngân hàng đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc, một số nhà băng quy mô nhỏ, yếu kém muốn bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, nhưng bất thành sau quá trình đàm phán.

Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan nghiên cứu đề xuất việc tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam lên trên mức trần 30% như hiện nay, thậm chí là 100% cho nhà băng yếu kém.

Thế nhưng, đến nay, vẫn chưa có nhà băng nội nào được bán 100% vốn cho cổ đông chiến lược nước ngoài, kể cả những nhà băng nhỏ, yếu kém và cần nguồn lực để đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc. GPBank là trường hợp điển hình, trước khi phải bán lại với giá 0 đồng cho Ngân hàng Nhà nước sau khi đàm phán bán 100% vốn với một vài nhà đầu tư nước ngoài bất thành.

Còn với các nhà băng khác, muốn hút thêm vốn ngoại cũng không dễ. Một trong những lý do khiến nhà đầu tư nước ngoài còn e ngại vào lĩnh vực ngân hàng Việt Nam hiện nay chính là quy định trần tỷ lệ sở hữu của khối ngoại là 30%. Các nhà đầu tư ngoại luôn tìm hiểu rất kỹ lưỡng trước khi quyết định bỏ vốn vào ngân hàng Việt Nam, nhất là những ngân hàng yếu kém.

Bỏ một khoản tiền rất lớn, hàng trăm triệu USD vào một ngân hàng Việt Nam mà tỷ lệ nắm giữ chỉ 20 - 30%, họ không thể kiểm soát và chi phối được được hoạt động ngân hàng. Đó lá lý do đối tác nước ngoài đã rút lui trong nhiều vụ đàm phán mua - bán cổ phần ngân hàng Việt với tỷ lệ 20% trước đây như tại thương vụ hợp tác ANZ - Sacombank; OCBC - VPBank; FFH (Fullerton Financial Holdings) - Mekongbank… 

Trong khi đó, cổ phiếu ngành ngân hàng hiện nay cũng có sự phân hóa rõ nét. Hiện một số cổ phiếu của ngân hàng đã niêm yết trên sàn rất tốt, nhất là những ngân hàng quy mô lớn và đã xử lý sạch nợ xấu. Ngược lại, cổ phiếu của những nhà băng quy mô vừa và nhỏ, nợ xấu vẫn là mối lo đe dọa hoạt động khó tăng giá.

Mặt khác, lợi nhuận làm ra hàng năm đều được ngân hàng ưu tiên trích lập dự phòng rủi ro, nhất là ở những nhà băng mà nợ xấu còn là mối lo. Điều đó đồng nghĩa với việc cổ đông phải hy sinh lợi nhuận và khó có thể kỳ vọng nhận cổ tức trong thời gian dài.

TS. Lê Anh Tuấn, Giám đốc Khối Nghiên cứu, Kinh tế trưởng Tập đoàn Dragon Capital
Đặc san toàn cảnh ngân hàng Việt Nam

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục