Việt Nam tiên phong trong thực thi Công ước Hà Nội

Không chỉ là chủ nhà tổ chức Lễ mở ký Công ước Hà Nội, Việt Nam còn là quốc gia tiên phong trong thực thi, đồng hành và dẫn dắt cuộc chiến chống tội phạm mạng toàn cầu.
Tổng thư ký Liên hợp quốc António Guterres đến Việt Nam tham dự Lễ mở ký Công ước Hà Nội. Ảnh: TTXVN

Chuẩn bị cho bước chuyển từ ký kết sang hành động

Công ước Hà Nội được mở ký ngày 25/10/2025, với sự tham dự của Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres và Chủ tịch nước Việt Nam Lương Cường. Tiếp theo, Công ước sẽ được mở ký tại trụ sở Liên hợp quốc ở New York đến hết ngày 31/12/2026. Văn kiện sẽ có hiệu lực sau 90 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập của 40 quốc gia.

Sau lễ mở ký, việc chuẩn bị thực thi Công ước Hà Nội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Là nước chủ nhà, giữ vai trò trọng yếu trong quá trình đàm phán, mở ký và giờ đây là giai đoạn thực thi, Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế tiên phong trong hợp tác quốc tế về điều tra, truy tố, ngăn chặn tội phạm mạng; chia sẻ dữ liệu, bằng chứng điện tử và kinh nghiệm điều tra với các quốc gia khác.

Tuy nhiên, để thực thi hiệu quả Công ước, Việt Nam phải lưu ý một số vấn đề.

Thứ nhất, là vấn đề nội luật hóa, tức chuyển hóa các quy định của Công ước vào pháp luật quốc gia. Mặc dù Việt Nam đã ban hành Luật An ninh mạng năm 2018, Nghị định 53/2022/NĐ-CP, Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) năm 2023 cùng các quy định liên quan trong Bộ luật Hình sự, song một số điều khoản vẫn chưa đủ chi tiết để đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế.

Thứ hai, là vấn đề năng lực kỹ thuật và nhân lực. Tội phạm mạng ngày càng tinh vi, sử dụng công nghệ cao, trong khi lực lượng điều tra và giám định kỹ thuật số của Việt Nam vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Nhiều địa phương chưa có đủ thiết bị chuyên dụng để phân tích, phục hồi dữ liệu hoặc xác định nguồn gốc tấn công. Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh của trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) và điện toán đám mây mở ra không gian tấn công mới, đòi hỏi năng lực giám sát và phản ứng nhanh vượt xa khả năng truyền thống.

Cùng với khung pháp lý, phối hợp công - tư cũng là yếu tố then chốt. Doanh nghiệp công nghệ, ngân hàng và nhà cung cấp dịch vụ mạng là “cửa ngõ” quan trọng trong việc phát hiện và ngăn chặn tội phạm mạng. Tuy nhiên, cơ chế hợp tác giữa khu vực nhà nước và tư nhân hiện vẫn rời rạc, thiếu quy định cụ thể về chia sẻ thông tin, phản ứng sự cố và bảo mật dữ liệu. Nhiều vụ việc chỉ được xử lý khi hậu quả đã xảy ra, thay vì phòng ngừa từ sớm.

Tăng cường năng lực, mở rộng hợp tác

Sau khi Công ước Hà Nội được phê chuẩn và có hiệu lực, Việt Nam sẽ có cơ hội chuyển hóa vai trò lãnh đạo ngoại giao thành tác động thực tiễn. Theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đặng Hoàng Giang, việc Công ước được thông qua mới chỉ là bước khởi đầu. Trong quá trình thực thi, các quốc gia cần nỗ lực dung hòa khác biệt, tìm điểm tương đồng, tăng cường kết nối và duy trì thiện chí hợp tác. Sự khác biệt về thể chế, hệ thống pháp luật hay trình độ nhân lực là rào cản đối với hợp tác toàn cầu hiệu quả.

Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (A05, Bộ Công an) cho biết, Việt Nam đã chuẩn bị cả về pháp lý lẫn nguồn lực kỹ thuật, nhân lực để đảm bảo tham gia đầy đủ các nội dung của Công ước. Các hoạt động khai thác, quản lý, xử lý dữ liệu sẽ không chỉ phục vụ cho lực lượng trong nước, mà còn đáp ứng yêu cầu hợp tác với các quốc gia khác.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng sẽ hoàn thiện thêm nhiều nội dung pháp lý để đảm bảo thực thi thuận lợi các hoạt động thường xuyên, đặc biệt là thu thập, phân tích và chuyển giao chứng cứ điện tử.

Thiếu tướng Lê Xuân Minh, Cục trưởng A05 cho biết, sau khi ký kết Công ước, Việt Nam sẽ rà soát hệ thống pháp luật liên quan để sớm phê chuẩn. Các biện pháp trọng tâm gồm sửa đổi Luật An ninh mạng (hợp nhất với Luật An toàn thông tin mạng); hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự để triển khai các nội dung như trao đổi thông tin tội phạm, chuyển giao dữ liệu, dẫn độ và thu hồi tài sản phạm tội. Đặc biệt, Việt Nam sẽ thiết lập cơ chế phối hợp 24/7 theo yêu cầu của Công ước.

Giáo sư Carl Thayer (Học viện Quốc phòng Australia, Đại học New South Wales) nhận định, Việt Nam cần tận dụng cơ hội là nơi diễn ra Lễ mở ký Công ước Hà Nội để tăng cường hợp tác quốc tế và nâng cao năng lực ứng phó với tội phạm mạng. Việt Nam luôn đi đầu trong ASEAN trong việc thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia, điều này cần được duy trì cả trong lĩnh vực an ninh mạng. Ông cho rằng, các nước ASEAN nên khuyến khích hợp tác thực thi pháp luật, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ nhau từ điều tra, thu thập chứng cứ, dữ liệu, lời khai đến bảo vệ nhân chứng. Đồng thời, mỗi quốc gia cần đạt một số tiêu chuẩn bảo mật nhất định.

ASEAN cũng nên xem xét thành lập trung tâm máy tính khu vực ứng phó tội phạm mạng. Trên thực tế, ASEAN đã có trung tâm do Interpol thành lập từ năm 2015 để chống tội phạm mạng. Với 10 năm kinh nghiệm, trung tâm này được kỳ vọng sẽ phát huy vai trò mạnh mẽ hơn, đặc biệt sau khi Công ước Hà Nội được ký kết.

TS. Trần Hải Linh, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân và Đầu tư Việt Nam - Hàn Quốc (VKBIA), khuyến nghị, để duy trì vai trò chủ động và gia tăng ảnh hưởng trong việc thúc đẩy thực thi Công ước Hà Nội cũng như các cơ chế hợp tác quốc tế về an ninh mạng, Việt Nam cần triển khai đồng bộ chính sách đối ngoại, nâng cao năng lực trong nước và thúc đẩy liên kết đa phương, đa ngành. Cụ thể, cần chuyển từ “ký kết” sang “triển khai thực chất”, xây dựng lộ trình triển khai Công ước ở cấp quốc gia, tăng cường năng lực thực thi. Đồng thời, hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao năng lực điều tra, ứng phó sự cố, thúc đẩy hợp tác công - tư và đa phương.

Việc thành lập các trung tâm chuyên môn, chương trình đào tạo quốc tế và diễn tập liên quốc gia sẽ giúp Việt Nam không chỉ tuân thủ, mà còn dẫn dắt thực thi Công ước. Cùng với việc minh bạch hóa tiến trình và chỉ số đánh giá, Việt Nam sẽ duy trì được vai trò chủ động, góp phần xây dựng không gian mạng an toàn, đáng tin cậy cho khu vực và toàn cầu.

Tú Ân
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục