Theo tính toán, Việt Nam cần đạt điều kiện gì để trở thành nước có thu nhập cao?
Tôi đã xây dựng 3 kịch bản cho nền kinh tế Việt Nam cho giai đoạn tới. Trong đó, kịch bản 1 khó thực hiện hơn. Đó là giai đoạn 2026-2035, GDP tăng trưởng bình quân 10%/năm, dân số tăng 0,5%; giai đoạn 2036-2050 tăng trưởng tương ứng 7% và 0,2%, thì Việt Nam đạt mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2039.
Với kịch bản 2, khả thi hơn, giai đoạn 2026-2030, GDP tăng trưởng bình quân 7,5%/năm; giai đoạn 2031-2040, GDP tăng trưởng bình quân 10%/năm, thì Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2039.
Nhìn vào thực tế, thì kịch bản 3 dễ xảy ra nhất. Đó là không có giai đoạn tăng trưởng 2 con số. Giai đoạn 2026-2035, GDP tăng trưởng trung bình 8,5%/năm; sau đó đến tận năm 2045, GDP chỉ tăng trưởng bình quân 5,5%/năm, thì vào năm 2044, Việt Nam đã đạt mục tiêu trở thành nước có thu nhập cao.
Như vậy, dù ở kịch bản nào, tốt - trung bình - khó thả thi, thì khả năng rất cao là Việt Nam vẫn trở thành nước có thu nhập cao trước năm 2045 như Nhật Bản đã thành công vào năm 1969, Hàn Quốc vào năm 1995 và Trung Quốc nhiều khả năng sẽ đạt được vào năm 2027.
Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp vào năm 2009, nhưng thưa Giáo sư, từ trung bình thấp lên trung bình cao và thu nhập cao là vô cùng khó?
Nhiều quốc gia đã bước vào danh sách các nước có thu nhập trung bình, nhưng không thoát được “bẫy thu nhập trung bình”. Nguyên nhân chính là năng suất lao động không tăng như mong muốn. Việt Nam muốn thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, thì cần phải tăng năng suất lao động.
Trong khoảng 35 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của Việt Nam là 6,5%/năm, thu nhập bình quân đầu người tăng 5%/năm. Đây là thành quả đáng ghi nhận, nhưng không gây ấn tượng lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc từng đạt được trong nhiều năm. Nguyên nhân chính là tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam còn thấp.
Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đạt khoảng 5,29%/năm, trong đó giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8% (cao hơn mục tiêu 5%). Sau mấy năm bị tác động tiêu cực bởi đại dịch Covid-19, vài năm gần đây, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam được cải thiện, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với các nước phát triển trong khu vực và thế giới.
Vậy, nguyên nhân nào khiến năng suất lao động của Việt Nam tăng thấp?
Đó là khu vực lao động phi chính thức chiếm tỷ lệ lớn - trên 64%. Khu vực công nghiệp có năng suất lao động cao nhất, thì chủ yếu vẫn là gia công, lắp ráp có giá trị gia tăng thấp, càng xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo nhiều, càng nhập khẩu nhiều sản phẩm trung gian. Kết quả là, vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu có vẻ như là một công xưởng gia công, lắp ráp.
Nguyên nhân nữa khiến năng suất lao động thấp là sự yếu kém của khu vực kinh tế tư nhân, do tuyệt đại đa số là doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ, cùng với khu vực sản xuất, kinh doanh cá thể với 5 triệu đơn vị, thu hút hơn 9 triệu lao động.
Để tăng năng suất lao động, Việt Nam đã đưa ra rất nhiều cơ chế, chính sách, trong đó có Nghị quyết 50-NQ/TW năm 2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài, tập trung vào việc đổi mới tư duy thu hút đầu tư nước ngoài cả về số lượng và chất lượng, hướng tới công nghệ cao và bền vững. Và mới đây là Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, với mục tiêu đặt ra là đến năm 2030, tốc độ tăng năng suất lao động của khu vực này phải đạt 8,5-9,5%/năm.
Trở thành nước có thu nhập cao chỉ là một trong những mục tiêu mà Việt Nam hướng đến, còn nhiều mục tiêu khác nữa?
Muốn trở thành nước có thu nhập cao, điều kiện tiên quyết và bắt buộc là tốc độ tăng trưởng kinh tế phải cao trong một thời gian dài để đối phó với thách thức rất lớn là chưa giàu đã già. Hiện tỷ lệ người già trên 65 tuổi trong tổng dân số tại Việt Nam đã đạt 10% và dự báo lên đến 15% năm 2039. Đây là thách thức vô cùng lớn, vì Nhật Bản khi đạt mức thu nhập cao vào năm 1969, thì tỷ lệ người già chỉ chiếm 7% dân số.
Tăng trưởng GDP cao trong nhiều năm liên tục và đạt mức thu nhập trung bình cao vào năm 2035, thu nhập cao vào năm 2045 chỉ là một trong các mục tiêu mà Việt Nam theo đuổi. Mục tiêu quan trọng không kém đi kèm là chất lượng phát triển, giữ hài hòa với thiên nhiên và xã hội, luôn cải thiện cuộc sống của người dân.
Tăng trưởng kinh tế phải vì cuộc sống và hạnh phúc của người dân là kim chỉ nam trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu vừa phát triển nhanh, vừa bảo vệ môi trường, Việt Nam đã ban hành các chính sách, luật pháp cần thiết liên quan hoạt động của doanh nghiệp, khuyến khích áp dụng công nghệ thân thiện môi trường, cổ xúy nền kinh tế tuần hoàn trong kinh doanh và trong hành vi, văn hóa tiêu dùng của dân chúng.
Tại nhiều nước trên thế giới, khi tăng trưởng kinh tế càng cao, thì khoảng cách giàu nghèo, sự bất bình đẳng trong xã hội càng lớn. Thưa Giáo sư, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không và sẽ không đi theo hướng này?
Vẫn là nước có thu nhập trung bình thấp, nhưng Việt Nam rất quan tâm đến phát triển con người, quyết “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Đây không phải là khẩu hiệu, mà là thực tế. Mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã nhận thức sâu sắc, đầy đủ và thực hiện nhất quán quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc.
Phát triển giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, không phải là khẩu hiệu, khi kể từ năm học 2025-2026 thực hiện miễn học phí và hỗ trợ học phí cho học sinh từ mầm non đến hết phổ thông trung học, với hơn 23,2 triệu học sinh được thụ hưởng. Trong giáo dục và đào tạo, Nhà nước giữ vai trò định hướng chiến lược, kiến tạo phát triển, bảo đảm nguồn lực và công bằng trong giáo dục; bảo đảm đủ trường, đủ lớp, đủ giáo viên đáp ứng nhu cầu học tập của người dân.
Bộ Chính trị cũng ban hành Nghị quyết 72-NQ/TW về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân với nhiệm vụ yêu cầu đặt ra là người dân được tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng, hướng tới chăm sóc sức khỏe toàn diện. Bắt đầu từ năm 2026, người dân được khám sức khỏe định kỳ hoặc khám sàng lọc miễn phí ít nhất mỗi năm một lần, từng bước giảm gánh nặng chi phí y tế; đến năm 2030, người dân được miễn viện phí ở mức cơ bản trong phạm vi quyền lợi bảo hiểm y tế theo lộ trình.