Việt Nam tiếp tục là câu chuyện tăng trưởng của châu Á 2018
Theo ông Hải, bức tranh kinh tế thế giới năm 2018 thay đổi rất nhanh khi hầu hết các khu vực đều cho thấy đà tăng trưởng mạnh mẽ vào đầu năm.
Tuy nhiên, ngay sau đó thị trường gặp rất nhiều biến động khi căng thẳng thương mại Mỹ-Trung phát sinh vào đầu tháng 4/2018 khi Mỹ tuyên bố áp dụng 25% thuế suất với giá trị khoảng 50 tỷ USD hàng xuất khẩu của Trung Quốc và Trung Quốc ngay sau đó đáp trả với thuế suất 25% cũng cho 50 tỷ USD hàng xuất khẩu của Mỹ.
Bên cạnh căng thẳng thương mại tiếp tục leo thang và chưa có giải pháp khả thi, Fed vẫn duy trì đà tăng lãi suất với bốn lần tăng lãi suất trong năm 2018 và nền kinh tế Trung Quốc giảm tốc độ tăng trưởng, đã dẫn đến sự chao đảo của thị trường chứng khoán thế giới và một số đồng tiền của thị trường mới nổi đã mất giá mạnh so với USD.
Trong bối cảnh đó, ông Hải cho biết, Việt Nam tiếp tục là câu chuyện tăng trưởng của châu Á trong năm 2018, thậm chí được cho là đã có một năm hoạt động tốt hơn các nước trong khu vực.
Đặc biệt, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng phát triển mạnh, dẫn đầu đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cả nước. Ngành sản xuất, đầu tàu cho xuất khẩu của Việt Nam, hoạt động ổn định trong bối cảnh xuất khẩu hàng điện tử từ phần lớn các nước châu Á giảm.
Ngành dịch vụ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và đang dần trở thành xương sống đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Doanh số bán lẻ, giao thông, dịch vụ nhà cửa tiếp tục tăng trưởng mạnh do lương tăng và số khách du lịch gia tăng. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục khi thu nhập còn tăng do chuyển đổi lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang các khu vực năng suất cao khác và khi đất nước tự do hóa ngành du lịch.
"Việt Nam được đánh giá là một trong những nước sẽ hưởng lợi, thậm chí là hưởng lợi nhất, từ căng thẳng thương mại leo thang trên thế giới, đặc biệt giữa Mỹ và Trung Quốc, và nếu những căng thẳng này không dẫn tới suy giảm khối lượng thương mại toàn cầu", ông Hải nhận định.
Trong tháng 10/2018, đơn hàng xuất khẩu mới và việc làm tăng hơn hẳn những tháng trước đó và theo công ty Markit, lượng đơn hàng xuất khẩu mới gia tăng với tốc độ cao nhất trong vòng 3 tháng khi các công ty hưởng lợi từ việc mở rộng sang thị trường mới và lượng khách hàng cao hơn. Đây có thể là những tín hiệu đầu tiên từ ảnh hưởng của việc dòng thương mại chuyển hướng mà Việt Nam được lợi.
Trong khi đó, dòng FDI tiếp tục chảy vào Việt Nam, chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất và các dấu hiệu cho thấy xu hướng này sẽ còn tiếp tục và gia tăng trong bối cảnh căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc tiếp tục, ông Hải cho biết thêm.
Ngoài ra, cũng theo ông Hải, hiệp định CPTPP sẽ bắt đầu có hiệu lực từ cuối năm 2018 cộng với hiệp định thương mại EU – Việt Nam được kỳ vọng sẽ sớm được phê chuẩn vào đầu 2019 sẽ tạo động lực rất lớn cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Chính sách này sẽ không chỉ giúp Việt Nam tiếp tục thu hút được dòng vốn FDI, thúc đẩy tăng trưởng thương mại hai chiều mà còn tạo áp lực để Việt Nam tiếp tục cải cách nền kinh tế nhằm tuân thủ các tiêu chuẩn rất cao của các hiệp định thương mại thế hệ mới. Những cải cách này sẽ tạo nền tảng phát triển bền vững cho Việt Nam trong tương lai.
Những thách thức trong ngắn, trung và dài hạn
Bên cạnh các cơ hội, ông Hải cho rằng, Việt Nam cũng đang và sẽ đối mặt với các thách thức cả về ngắn hạn, trung và dài hạn.
Thách thức ngắn hạn chủ yếu đến từ các bất ổn bên ngoài, từ nền kinh tế thế giới. Trong trường hợp căng thẳng thương mại Mỹ Trung tiếp tục leo thang làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư và giảm tốc độ tăng trưởng thương mại toàn cầu, Việt Nam chắc chắn sẽ chịu tác động lớn do độ mở của nền kinh tế rất lớn với thế giới. Ngoài ra, nếu kinh tế Trung Quốc giảm tốc đột ngột cũng sẽ gây tác động lớn đến kinh tế Việt Nam và khu vực.
Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng và đang đứng trước cơ hội của công nghiệp 4.0
Thách thức trung và dài hạn được ông Hải chỉ ra chủ yếu đến từ các yếu tố nội tại bao gồm thách thức về nhân khẩu học.
Tỷ trọng dân số lớn tuổi trong tổng dân số đang gia tăng đều trong vòng ba thập kỷ vừa qua (năm 1990 là 5,7% và cho tới 2017 là 7,1%) trong khi tỷ lệ sinh (trong 1.000 người) đã giảm (năm 1990 là 29,5 và 2017 là 15,5).
Dự báo trong dài hạn cho thấy dân số của Việt Nam, vốn đã tăng từ 60 triệu năm 1986 lên 95 triệu năm 2017, sẽ có khả năng đạt đỉnh 120 triệu trước khi giảm vào năm 2050 (báo cáo của World Bank ra ngày 5/10/2018).
Cũng theo dự báo của UN và HSBC, Việt Nam sẽ có tỷ lệ dân số trên 65 tuổi nhiều hơn nhiều nước trong khu vực và thậm chí còn cao hơn cả Mỹ. Điều này làm dấy lên mối lo ngại về áp lực lên hệ thống chăm sóc sức khỏe, phúc lợi xã hội và hưu trí của Việt Nam trong tương lai.
"Đa phần các nước đã phát triển đều tận dụng thời kỳ dân số vàng để cải cách nền kinh tế, công nghiệp hóa và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng để chuyển từ nền kinh tế có thu nhập trung bình sang nền kinh tế có thu nhập cao trước khi dân số già. Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng và đang đứng trước cơ hội của công nghiệp 4.0. Hy vọng, chúng ta có thể quyết liệt cải cách nền kinh tế để kịp giàu trước khi già", ông Hải nói.
Bên cạnh đó, ông Hải cũng chỉ ra thêm một thách thức là năng suất lao động. Năng suất lao động của Việt Nam thuộc vào hàng thấp tại châu Á (bằng 1/18 của Singapore, 1/16 của Malaysia và 1/3 của Thái Lan và Trung Quốc), trong khi sự chuyển đổi từ nông nghiệp sang sản xuất có thể chưa đem lại hiệu suất cao nhất mong muốn do bản chất kém năng suất của các ngành đầu tư nội địa.
Nâng cao năng suất lao động thông qua cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo cần trở thành ưu tiên trước khi chúng ta có thể hưởng lợi nhiều hơn từ thương mại.
Ông Hải nhấn mạnh: "Môi trường và cơ sở pháp lý hỗ trợ cho khởi nghiệp, sáng tạo cần được xây dựng hoàn chỉnh nhằm giúp cho các start-up có thể thử nghiệm ý tưởng trên thị trường và có một hệ sinh thái để phát triển. Cơ chế cũng cần được cởi trói để người tài được trao quyền và được sử dụng đúng vị trí".
Một thách thức nữa là cơ sở hạ tầng bao gồm hạ tầng cứng như đường xá, cầu, cảng, sân bay và hạ tầng mềm như quy định pháp luật, hệ thống tài chính...
Với tốc độ phát triển nhanh của Việt Nam hiện nay, nếu chúng ta không xây dựng được hệ thống hạ tầng hoàn chỉnh, chúng ta sẽ gặp phải thách thức về các điểm nghẽn tăng trưởng như hệ thống giao thông tắc nghẽn, quy định pháp luật chằng chịt và được diễn giải theo nhiều cách khác nhau sẽ hạn chế hiệu quả của nền kinh tế.
"Trong năm 2019, Việt Nam sẽ tiếp tục là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất của châu Á nhưng sẽ phải đổi mặt với những sóng gió từ sự suy giảm tăng trưởng của Trung Quốc, châu Âu và Mỹ, ba trong số các đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, do bảo hộ thương mại khiến bất ổn tăng trưởng toàn cầu gia tăng", ông Hải nói.
Tuy nhiên, một số những rủi ro nội tại ông Hải cho rằng được Chính phủ kiềm chế tốt so với những năm trước. Ví dụ như, tỷ lệ nợ công trong GDP giảm xuống và kỳ vọng những cải thiện nhẹ trong năm 2019. Tăng trưởng tín dụng đã chậm lại mặc dù tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng vẫn là một yếu tố đáng quan ngại.
Thêm vào đó, rủi ro về lạm phát thấp do giá dầu giảm nhanh và chính sách thắt chặt tín dụng của NHNN trong nửa sau năm 2018. Với triển vọng lạm phát được thu hẹp hơn, NHNN sẽ giữ lãi suất chính sách, cho phép cơ quan này tập trung hơn vào tăng trưởng năm 2019 trong bối cảnh những rủi ro bên ngoài đang đe dọa gia tăng.