
Ông đánh giá thế nào về vai trò của chính sách thuế trong việc thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khoa học - công nghệ cao hiện nay?
Đối với doanh nghiệp, thuế dưới bất kỳ hình thức nào cũng là một khoản chi phí. Vì vậy, các chính sách nhằm giảm gánh nặng thuế chính là tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp hạ chi phí, tăng năng lực cạnh tranh. Trong nhiều năm qua, chúng ta đã có những chính sách thúc đẩy doanh nghiệp phát triển nói chung, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ và công nghệ cao. Luật đã quy định việc áp dụng thuế suất ưu đãi có thời hạn cũng như miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học - công nghệ và doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ phát triển công nghệ cao.
Những ưu đãi này giúp doanh nghiệp giảm nghĩa vụ thuế, tiết giảm chi phí, gia tăng lợi nhuận và có thêm nguồn lực tài chính để tái đầu tư, mở rộng hoạt động. Vai trò của chính sách thuế là tạo điều kiện, khuyến khích và thúc đẩy thông qua các ưu đãi nhằm thu hút, kích thích doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghệ cao.
Khi doanh nghiệp tuân thủ chính sách thuế và đáp ứng đầy đủ điều kiện để được hưởng ưu đãi, bản thân họ cũng gia tăng tính minh bạch, khẳng định năng lực tài chính. Trong báo cáo tài chính, doanh nghiệp thể hiện rõ lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế, phần thuế phổ thông và phần lợi ích từ ưu đãi thuế, qua đó phản ánh toàn cảnh hoạt động cũng như chính sách hỗ trợ từ Nhà nước.
Theo quan sát của ông, việc triển khai ưu đãi thuế cho doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo hiện nay đã đạt kết quả đáng chú ý nào?
Chính sách thuế chỉ là một phần, cần sự đồng bộ từ nhiều chính sách khác.
Chúng ta đã ban hành chính sách khá toàn diện, bao trùm nhiều lĩnh vực liên quan đến doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao và các dự án đầu tư phát triển công nghệ cao. Cùng với hệ thống chính sách hỗ trợ khác, nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam đã mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực này.
Đặc thù của công nghệ cao là rủi ro lớn; nếu không có sự chia sẻ từ Nhà nước, doanh nghiệp sẽ phải gánh toàn bộ. Nhờ chính sách hỗ trợ, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư thành công, tạo ra sản phẩm “Made in Vietnam” trong các lĩnh vực phần mềm, điện tử, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, một phần trong lĩnh vực bán dẫn, công nghệ sạch đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe của xã hội hiện đại. Nhiều thương hiệu Việt đã vươn tầm thế giới, vượt qua các tiêu chuẩn cao, gắn với sự phát triển của khoa học - công nghệ.
Trong quá trình thực hiện các chính sách ưu đãi thuế, doanh nghiệp thường gặp khó khăn gì? Họ cần làm gì để tiếp cận chính sách hiệu quả hơn, thưa ông?
Vai trò của chính sách thuế là tạo điều kiện, khuyến khích và thúc đẩy thông qua các ưu đãi nhằm thu hút, kích thích doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghệ cao.
Về thủ tục, doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm và đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy định để được hưởng ưu đãi. Doanh nghiệp khoa học - công nghệ cần có giấy chứng nhận, đồng thời phải hạch toán riêng đối với hoạt động được ưu đãi và hoạt động không thuộc diện ưu đãi.
Khó khăn đầu tiên là sự thiếu hiểu biết hoặc hiểu chưa đầy đủ, dẫn tới việc áp dụng sai, không chứng minh đủ điều kiện hưởng ưu đãi. Khi thanh tra, kiểm tra, doanh nghiệp dễ bị truy thu và xử phạt.
Khó khăn thứ hai liên quan đến việc áp dụng thời gian ưu đãi thuế hoặc miễn, giảm thuế có thời hạn. Thực tế có trường hợp doanh thu phát sinh trước khi có giấy chứng nhận là doanh nghiệp khoa học công nghệ hoặc ngược lại, dẫn đến thiếu nhất quán khi thực hiện, khiến doanh nghiệp chịu thiệt thòi. Ngoài ra, yêu cầu hạch toán riêng cũng là thách thức khi không phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng tốt.
Vì vậy, doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo đội ngũ nhân sự để thực hiện đúng quy định; trong những trường hợp phức tạp nên sử dụng dịch vụ tư vấn thuế.
Luật số 67/2025/QH15 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin và các luật liên quan) có những điểm mới nào trong việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao, thưa ông?
Đối với đầu tư công nghệ cao, có hai điểm mới đáng chú ý. Thứ nhất, mở rộng diện ưu đãi đầu tư, bao gồm ưu đãi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời hạn nhất định đối với phát triển công nghệ chiến lược.
Thứ hai, tháo gỡ vướng mắc về thời điểm tính ưu đãi. Trước đây, thời gian ưu đãi tính từ khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận khoa học - công nghệ. Nay quy định mới cho phép tính từ thời điểm phát sinh doanh thu, trong trường hợp giấy chứng nhận được cấp sau.
Ngoài ra, đối với miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn, quy định mới yêu cầu tính từ năm đầu tiên doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế (chưa trừ lỗ chuyển tiếp), nhưng chậm nhất là 4 năm kể từ khi được cấp giấy chứng nhận.
Đối với ưu đãi thuế nhằm khuyến khích nghiên cứu và phát triển (R&D), có ba điểm mới. Một là, bổ sung quy định cho phép chi phí R&D được tính gấp đôi, tức 1 đồng chi phí thực tế được tính thành 2 đồng khi khấu trừ. Hai là, bổ sung ưu đãi thuế cho doanh nghiệp khoa học - công nghệ. Ba là, nâng tỷ lệ trích lập Quỹ phát triển khoa học - công nghệ từ 10% lên 20%, tạo điều kiện để doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn cho R&D.
Chính sách thuế tác động thế nào đến doanh nghiệp khi họ đáp ứng đủ tiêu chí để được hưởng ưu đãi?
Khi thực hiện đầy đủ và đúng quy định, doanh nghiệp sẽ mở rộng diện được hưởng ưu đãi, giảm đáng kể nghĩa vụ thuế, từ đó gia tăng lợi nhuận sau thuế. Các doanh nghiệp đang trong diện ưu đãi cũng giảm được chi phí tuân thủ, không còn phải mất thời gian, công sức xử lý khiếu nại hay khiếu kiện do vướng mắc chính sách.
Theo ông, Luật số 67 có những điểm mới nào hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như hộ kinh doanh?
Có ba điểm đáng chú ý. Thứ nhất, bổ sung ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với đầu tư, kinh doanh cơ sở kỹ thuật hỗ trợ, ươm tạo doanh nghiệp nhỏ và vừa, khu làm việc chung dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, khởi nghiệp sáng tạo. Thứ hai, áp dụng thuế suất ưu đãi thấp hơn mức phổ thông 20%: doanh nghiệp có doanh thu dưới 3 tỷ đồng/năm chịu thuế suất 15%, từ 3 tỷ đồng đến dưới 50 tỷ đồng/năm chịu thuế suất 17%. Thứ ba, doanh nghiệp mới thành lập từ hộ kinh doanh với doanh thu không quá 3 tỷ đồng/năm được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm liên tiếp. Trước đó, Nghị quyết 198/2025/QH15 đã cho phép miễn thuế 3 năm với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đây là những yếu tố hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và hộ kinh doanh.
Chính sách thuế cần đồng bộ thế nào với các chính sách khác như vốn, đất đai để khuyến khích đổi mới sáng tạo?
Mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp khi đầu tư kinh doanh là lợi nhuận. Quyết định này chịu tác động từ nhiều yếu tố: năng lực nội tại, môi trường đầu tư, chính sách đất đai, tín dụng, hạ tầng, logistics, thủ tục hành chính…
Nếu tiếp cận đất đai khó khăn, doanh nghiệp phải chịu chi phí lớn, thậm chí vướng pháp lý khiến dự án đình trệ. Dù Nhà nước đã có nhiều giải pháp tháo gỡ nhưng thực tế vẫn còn không ít điểm nghẽn.
Về tín dụng, đây là quan hệ thị trường; khi Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thì cần cơ chế ràng buộc, giám sát chặt chẽ để chính sách phát huy hiệu quả.
Chi phí logistics của Việt Nam hiện ở mức cao do hạn chế về hạ tầng, nhất là đường sắt và giao thông đô thị. Đầu tư đường bộ thời gian qua đã được đẩy mạnh nhưng vẫn còn tình trạng ùn tắc. Cảng biển đã phát triển song cần tiếp tục mở rộng. Đặc biệt, tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam cần được triển khai không chỉ phục vụ hành khách mà cả vận tải hàng hóa, nếu dùng chung sẽ kém hiệu quả.
Về thủ tục hành chính, đây là yếu tố then chốt quyết định chi phí tuân thủ. Bộ máy tinh gọn, minh bạch sẽ tạo thuận lợi, ngược lại dễ trở thành điểm nghẽn. Như vậy, chính sách thuế chỉ là một phần, cần sự đồng bộ từ nhiều chính sách khác.
Trong bối cảnh toàn cầu chuyển mình mạnh mẽ trong kỷ nguyên số, đổi mới sáng tạo và khoa học - công nghệ được xem là động lực quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tại Việt Nam, Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số xác định phát triển doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp công nghệ cao là một trong những ưu tiên chiến lược. Trong đó, chính sách thuế vừa là công cụ điều tiết, vừa là động lực khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ.