Tuyên ngôn Độc lập và góc nhìn từ bên kia đại dương

(ĐTCK) Gần 70 năm trước, mùa Thu năm 1945, trong khí thế hào hùng của cuộc Cách mạng Tháng Tám, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), bằng bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945. Ảnh: tư liệu Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945. Ảnh: tư liệu

Từ căn nhà 48 - Hàng Ngang, bản Tuyên ngôn ra đời

Bản Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước 50 vạn đồng bào mùa Thu năm 1945 tại Quảng trường Ba Đình là một dấu son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đó cũng là sự nối tiếp truyền thống bản tuyên ngôn “Nam quốc sơn hà” được danh tướng Lý Thường Kiệt viết vào thế kỷ thứ X và áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi viết năm 1428.

Với lý luận chặt chẽ, sắc bén và những dẫn chứng hùng hồn, đanh thép, thuyết phục, bản Tuyên ngôn là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận cách mạng và thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trước đó, để chuẩn bị cho ngày lễ trọng đại, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã rời chiến khu Tân Trào, trở về Hà Nội. Một buổi sáng cuối tháng 8/1945, tại ngôi nhà số 48 - Hàng Ngang (Hà Nội), ngôi nhà của gia đình ông Trịnh Văn Bô và bà Hoàng Thị Minh Hồ - những nhà tư sản yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, bàn nhiều vấn đề, trong đó có việc chuẩn bị Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ lâm thời ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa.

Ngày 28/8, trên gác hai của nhà số 48 - Hàng Ngang, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu dự thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Sau đó, Người đã mời một số người thân cận đến góp ý để bổ sung cho bản dự thảo.

Trong cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, tác giả Trần Dân Tiên viết về bản Tuyên ngôn Độc lập bằng những lời súc tích: “Sau khi đọc bản thảo cho những người cộng tác thân cận nghe và hỏi ý kiến họ (đây là một thói quen của Cụ Hồ, hỏi ý kiến để người khác phê bình công việc mình làm), Cụ Hồ không giấu nổi sự sung sướng. Cụ Hồ nói, trong đời mình, Cụ đã viết nhiều, nhưng đến bây giờ mới viết được một bản tuyên ngôn như vậy.

Thật vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của những bản yêu cầu gửi cho Hội nghị Véc-xây mà Cụ đã viết năm 1919 và Chương trình Việt Minh mà Cụ viết năm 1941. Hơn nữa, bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của những bản tuyên ngôn khác của các tiền bối, như các cụ Thủ Khoa Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và nhiều người khác, của bao nhiêu sách báo truyền đơn bí mật viết bằng máu và nước mắt của những nhà yêu nước từ hơn 80 năm nay.

Bản Tuyên ngôn Độc lập là hoa, là quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mạng đã hy sinh, của những con người anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trên những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường.

Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam.

Bản Tuyên ngôn Độc lập là một trang vẻ vang trong lịch sử Việt Nam. Nó chấm dứt chính thể quân chủ chuyên chế và chế độ thực dân áp bức. Nó mở ra một kỷ nguyên mới Dân chủ Cộng hòa”.

Nhà hiền triết hiện đại hành động vì độc lập, tự do

Hình ảnh cụ Hồ Chí Minh mặc bộ quần áo ka-ki bạc màu đứng trên lễ đài, thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với nhân dân thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gây ấn tượng mạnh mẽ với các chính trị gia, nhà nghiên cứu và truyền thông nước ngoài. Và từ bên kia đại dương, chính những người Mỹ đã cất công tìm hiểu, đánh giá về bản Tuyên ngôn của Việt Nam có dẫn lời từ Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ.

Xung quanh lời mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam, những người Mỹ đã phát hiện sự khác biệt - không đơn thuần là trích dẫn bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và thừa nhận tầm nhìn, trí tuệ của Bác. Trong cuốn Hồ Chí Minh - Tinh hoa dân tộc (Nhà Xuất bản Văn học, 2012), tác giả Đạm Thu dẫn lời Lady Breston, một người Mỹ có tiếng đã viết để nói với nhân dân Mỹ rằng:

“Người Mỹ chúng ta (có cái gì đó không đúng) cứ nhớ rằng, Cụ Hồ Chí Minh mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam bằng trích dẫn bản Tuyên ngôn của Mỹ. Cụ Hồ đọc bản Tuyên ngôn của Việt Nam hơn 30 năm sau khi cụ đã sống ở New York và Boston. Tôi ngạc nhiên thử hỏi, liệu Cụ Hồ trích dẫn dựa vào trí nhớ hay có kiểm chứng? Nếu thế, thì bằng cách nào?”.

Chính sự ngạc nhiên đó khiến Lady Breston quyết đi tìm một nhân chứng đặc biệt khác, đó là ông Charles Fenn, người đã gặp và giúp đỡ Cụ Hồ khi Người ở Côn Minh (Trung Quốc).

Và Breston được biết, ngày 26/8/1945, Cụ Hồ đã bí mật trở về Hà Nội, ở tại ngôi nhà 48 - Hàng Ngang. Tại đây, bản Tuyên ngôn Độc lập được Cụ Hồ viết và đánh máy bằng chiếc máy chữ xách tay.

Vốn là một nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp, Cụ Hồ Chí Minh đã đánh điện sang Mỹ để kiểm chứng các chi tiết trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ. Và người được Cụ Hồ Chí Minh nhờ giúp đỡ tìm các câu chữ, cách diễn đạt chính xác trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ chính là Charles Fenn.

Charles Fenn kể lại với Breston rằng, nhận được yêu cầu của Cụ Hồ, ông đã tìm đến thư viện để kiểm chứng và sau đó đã đánh điện cho Cụ Hồ về lời diễn đạt chính xác trong Tuyên ngôn Mỹ.

Và sự so sánh đã cho thấy, rõ ràng các nhà sử học Mỹ ban đầu đã chưa thấu đáo khi cho rằng, Cụ Hồ Chí Minh mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng việc trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ. Cụ Hồ không làm như vậy, Cụ đã thay đổi có chủ đích để khẳng định tầm nhìn của mình.

Cụ thể, bản Tuyên ngôn của Mỹ nêu: “Chúng tôi coi đây là chân lý hiển nhiên, rằng mọi người (bản của Mỹ dùng từ “men” - đàn ông) sinh ra đều bình đẳng”.

Từ “men” cũng được sử dụng một lần nữa trong bản Tuyên ngôn của Mỹ, ở câu “Tạo hóa cho họ (men)… quyền được sống, tự do và mưu cầu tài sản”.

Theo tác giả Đạm Thu (sách đã dẫn ở trên), trong khi viết bản Tuyên ngôn, Cụ Hồ đã cẩn thận xem lại bản đáp của người bạn Mỹ (Charles Fenn) và với vốn ngoại ngữ  của mình, Cụ Hồ đã phân biệt rõ từ “men” chỉ người đàn ông với chữ mọi người (people).

Với sự phân biệt đó, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được cụ Hồ bắt đầu bằng câu: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”. Ý nghĩa chỉ “mọi người” được thay thế bằng từ “họ” ở câu tiếp theo: “Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”.

Nói đến sự chính xác và cách dùng từ rất đắt của Hồ Chủ tịch trong Tuyên ngôn Độc lập, không thể không nhắc đến cách dùng lời hiệu triệu của Người. Hồ Chủ tịch đã dùng cụm “Hỡi đồng bào cả nước”, thể hiện sự bao trùm rộng rãi mà cách dịch tiếng Anh đơn thuần không làm rõ hết được ý nghĩa của nó.

Trong đó, từ “đồng bào” có ý nghĩa là “cùng một bọc”, gắn liền với truyền thuyết đùm bọc, chung giống chung nòi của người Việt, từ trăm con sinh ra trong cùng bọc trứng. Đó không đơn thuần là sự Việt hóa, mà xuất phát từ tấm lòng sâu thẳm, tư tưởng nhân văn, luôn vì dân, vì nước của Hồ Chí Minh.

Tờ New York Times, khi nói về sự kiện Hồ Chủ tịch đọc Tuyên ngôn Độc lập, đã dành những lời đánh giá ấn tượng. Tờ báo mô tả cảnh tượng “Người dân từ nhiều đường phố, cửa ngõ của Thủ đô tập hợp ở Quảng trường Ba Đình lịch sử để chứng kiến thời khắc lịch sử của đất nước. (…). Sau đó, một người đàn ông tiến tới micro và phát biểu: Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm…”.

Người đàn ông đó không ai khác, chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tờ New York Times đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng câu trích dẫn từ bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, nhưng không dừng lại ở tư tưởng của Tổng thống Jefferson, mà nâng cao tư tưởng ấy thành: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

7 thập kỷ đã đi qua, tư tưởng nhân văn, vì con người, vì nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập còn vang vọng và sẽ mãi vang vọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là áng văn hào hùng, thể hiện rõ chân lý, đạo lý của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh chính nghĩa vì quyền được hưởng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ nói riêng cho thấy sức sống trường tồn của nó.

Như Tiến sĩ Modagat Ah Med, Giám đốc UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã dành những lời đánh giá thế này về Hồ Chủ tịch:

“Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng, Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ không chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”.

Bá Thư
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục