
Một vấn đề phải thừa nhận rằng, việc phát hành trái phiếu của Chính phủ không thể là một biện pháp hút tiền (hay giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế, nhất là khi một phần không nhỏ tiền gửi Kho bạc còn được gửi tại các ngân hàng thương mại (NHTM). Bản chất của trái phiếu chính phủ là công cụ để Nhà nước huy động vốn, bù đắp thâm hụt ngân sách và đầu tư cơ sở hạ tầng. Khi thực hiện phát hành trái phiếu chính phủ, lượng tiền thu được, Chính phủ không thể không chi tiêu mà khi chi tiêu, tiền lại được đưa trở lại lưu thông (đối với trường hợp tiền gửi của Chính phủ gửi toàn bộ tại Ngân hàng Trung ương - NHTW). Đối với thực tế Việt Nam, một lượng tiền thu được qua phát hành trái phiếu chính phủ còn được gửi tại các NHTM, thì hành động hút tiền qua trái phiếu chính phủ không những không có tác động hút tiền về, mà còn là một kênh tạo tiền cho các NHTM đẩy mạnh tín dụng, làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế, gây áp lực lạm phát. Do vậy, không thể coi việc phát hành trái phiếu của Chính phủ là một biện pháp hút tiền khỏi nền kinh tế, mà chỉ có NHNN mới có thể thực hiện các biện pháp hút tiền về, vì NHNN là cơ quan duy nhất phát hành tiền, tiền của NHTW - NHNN là tiền có quyền lực cao.
Hơn nữa, việc phát hành trái phiếu chính phủ hiện nay, đối tượng mua chủ yếu là các NHTM (danh mục đầu tư có tính thanh khoản cao của các NHTM). Các NHTM đầu tư vào trái phiếu chính phủ ở mức độ nhất định, sẽ tạo ra hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn của các NHTM nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Nhiều nghiên cứu và thực tế của các nước đã cho thấy, việc đầu tư quá nhiều vào trái phiếu chính phủ của các NHTM cũng gây khó khăn cho thực thi chính sách tiền tệ. Khi các NHTM có xu hướng đầu tư quá nhiều vào trái phiếu chính phủ với thời hạn dài hơn các kỳ hạn huy động, khiến các định chế này phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt vốn khả dụng. Sự mất cân đối vốn khả dụng mang tính cơ cấu có thể ảnh hưởng đến việc phân bổ vốn khả dụng các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng và ảnh hưởng đến lãi suất thị trường liên ngân hàng, làm cho lãi suất qua đêm biến động mạnh khi sự mất cân bằng là đáng kể. Khi đó, NHTW buộc phải sử dụng các nghiệp vụ thường xuyên để bơm vốn cho các NHTM nhằm giảm sự biến động lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và như vậy, vô hình trung NHTW đã cung ứng tiền qua ngân sách, qua đó có thể gây áp lực lạm phát.
Thực tế hiện nay, xét trên tổng thể mức độ đầu tư vào trái phiếu chính phủ và các loại trái phiếu khác của các NHTM Việt Nam đang ở một tỷ lệ chưa cao so với tổng nguồn vốn huy động, nhưng so với nguồn vốn huy động VND có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên thì chiếm tới 36% và riêng lẻ cũng có ngân hàng mức độ đầu tư vào các loại trái phiếu chính phủ là rất lớn, lên tới trên 30% tổng nguồn vốn huy động. Khi thị trường trái phiếu thứ cấp của Việt