Tiếp tục hoàn thiện quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

(ĐTCK) Trong Bộ luật Dân sự năm 2015, chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được quy định từ Điều 292 đến Điều 350 (59 điều) thuộc Mục 3, Chương XV, Phần thứ 3 - Nghĩa vụ và hợp đồng. Chế định này được chia thành 8 tiểu mục, trong đó Tiểu mục 1 là quy định chung, các tiểu mục còn lại được thiết kế gắn với từng biện pháp bảo đảm cụ thể: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản.
Tiếp tục hoàn thiện quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

Việc thống nhất trong cách tiếp cận, từ đó tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định có liên quan về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có mối quan hệ đặc biệt với mục tiêu nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

Điều 292, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bao gồm: cầm cố tài sản; thế chấp tài sản; đặt cọc; ký cược; ký quỹ; bảo lưu quyền sở hữu; bảo lãnh; tín chấp; cầm giữ tài sản.

Tiếp tục hoàn thiện quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ảnh 1

TS. Hồ Quang Huy, Giám đốc Nhà xuất bản Tư pháp

Việc sắp xếp các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo thứ tự nêu trên cho thấy Bộ luật Dân sự năm 2015 đã phân loại biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thành 2 nhóm là: (1) Nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo thỏa thuận gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp; (2) Nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo quy định của luật gồm cầm giữ tài sản (không phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên).

Trong nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo thỏa thuận có 2 nhóm với tính chất bảo đảm hoàn toàn khác nhau, đó là: (1) Nhóm biện pháp bảo đảm bằng tài sản (hay còn gọi là nhóm biện pháp bảo đảm đối vật) bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu và (2) Nhóm biện pháp bảo đảm không bằng tài sản (hay còn gọi là nhóm biện pháp bảo đảm đối nhân), bao gồm bảo lãnh, tín chấp.

Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung 2 biện pháp bảo đảm mới, đó là “cầm giữ tài sản” và “bảo lưu quyền sở hữu”. Tuy không phải là các định chế mới, vì đã được ghi nhận và thể hiện ở Bộ luật Dân sự năm 2005 dưới góc độ là hợp đồng, giao dịch, nhưng lần đầu tiên được giải quyết thấu đáo, toàn diện ở góc độ của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Theo quan điểm của người viết, việc này không chỉ có ý nghĩa về mặt nghiên cứu, mà qua đó đã thể hiện được quan điểm là mỗi biện pháp bảo đảm có tính chất, đặc điểm và vai trò khác nhau trong việc thúc đẩy tiếp cận tín dụng có bảo đảm. Trên cơ sở phân định đó, pháp luật hiện hành cần được bổ sung những quy định mới để có thể cụ thể hóa được những quy định nền tảng trong Bộ luật Dân sự năm 2015, ví dụ như sự khác biệt giữa việc xử lý tài sản trong biện pháp bảo đảm bằng tài sản (cầm cố, thế chấp tài sản) với việc xử lý trách nhiệm của bên có nghĩa vụ trong biện pháp bảo đảm không bằng tài sản (bảo lãnh); vấn đề về thứ tự xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp nghĩa vụ được bảo đảm bằng nhiều hợp đồng bảo đảm khác nhau; các quy định cụ thể đối với 2 biện pháp bảo đảm mới là cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu của bên bán…

Quy định về hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, có 2 phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm gồm: (1) đăng ký biện pháp bảo đảm và (2) nắm giữ (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm.

Cụ thể, “biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm” (Điều 297). Trong khi đó, “đăng ký biện pháp bảo đảm là việc cơ quan đăng ký ghi vào sổ đăng ký hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu về việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm” (khoản 1, Điều 3, Nghị định số 102/NĐ-CP ngày 1/9/2017 của Chính phủ). Như vậy, đăng ký biện pháp bảo đảm và hành vi nắm giữ (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm có giá trị pháp lý như nhau khi xác định thời điểm đối kháng với người thứ ba.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2, Điều 297, Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền thanh toán theo quy định tại Điều 308 của Bộ luật này và luật khác có liên quan”.

Như vậy, nội hàm của khái niệm “hiệu lực đối kháng” được xác định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là “quyền truy đòi tài sản” và “quyền thanh toán”. 

So với Bộ luật Dân sự năm 2005 thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã hoàn thiện cơ chế (phương thức) làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm.

Cụ thể, ngoài cách thức đăng ký, lần đầu tiên Bộ luật Dân sự đã quy định một cách minh thị về một trong các phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm “nắm giữ” (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm. Việc bổ sung nắm giữ (chiếm giữ) là phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm, độc lập và bình đẳng với phương thức đăng ký là phù hợp và thống nhất với nguyên tắc bảo vệ “tình trạng hòa bình” của việc chiếm hữu thực tế mà Bộ luật Dân sự năm 2015 hướng đến. Theo đó, về nguyên tắc, ai (chủ thể nào) đang nắm giữ trực tiếp (chiếm hữu thực tế) tài sản thì được suy đoán là chủ thể có quyền đối với tài sản được nắm giữ (khoản 1, khoản 2, Điều 184).

Quan điểm này tiếp cận vào quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, thể hiện ở chỗ việc (tình trạng) nắm giữ tài sản bảo đảm cũng được xem là căn cứ xác định biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, bình đẳng với phương thức đăng ký và bên nhận bảo đảm đang nắm giữ tài sản bảo đảm hoàn toàn bình đẳng với bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo đảm được đăng ký trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ, đặc biệt là quyền thanh toán theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ (Điều 308).

Ngoài ra, Bộ luật Dân sự năm 2015 bước đầu đã ghi nhận và thể hiện được một số nội dung (đặc điểm) của vật quyền bảo đảm.

Cụ thể, lần đầu tiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định một cách minh thị 2 đặc điểm quan trọng của vật quyền bảo đảm, đó là quyền truy đòi tài sản bảo đảm và quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm trong trường hợp biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba.

Việc bổ sung quy định về quyền truy đòi tài sản bảo đảm và quyền được ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm thể hiện sự hài hòa hóa yếu tố vật quyền trong quan hệ trái quyền khi điều chỉnh quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự năm 2015, qua đó xử lý được phần nào những vấn đề mà thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm đang đặt ra.    

Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung “nắm giữ (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm” là phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, nhưng pháp luật vẫn cần tiếp tục làm rõ nội hàm của phương thức này thông qua các hành vi cụ thể như: (i) kiểm soát tài sản bảo đảm (đối với tài khoản tiền gửi, chứng khoán, thư tín dụng) và (ii) tự động phát sinh hiệu lực đối kháng (quyền lợi bảo đảm của bên cấp tín dụng để mua tài sản bảo đảm là hàng tiêu dùng - PMSI). Những vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu để có cách nhìn toàn diện hơn trước sự đa dạng của các loại tài sản bảo đảm và lợi ích của các chủ thể có liên quan trong đời sống dân sự, thương mại.

Một vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu, giải mã hiện nay là khái niệm “nắm giữ” hoặc “chiếm giữ” cần được hiểu như thế nào? Hành vi này mang tính pháp lý hay bắt buộc phải được thể hiện mang tính chất thực tế? Hai hành vi này cần được hiểu có gì khác biệt nhau và áp dụng trong những trường hợp cụ thể nào?

Ngoài ra, quyền truy đòi tài sản bảo đảm và quyền ưu tiên thanh toán được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng cách thức thực hiện như thế nào, cơ chế bảo đảm ra sao  chính là vấn đề mà pháp luật hiện hành vẫn chưa giải quyết triệt để. Trong khi đó, việc sử dụng cụm từ “quyền ưu tiên thanh toán” dường như cho thấy cách hiểu vẫn còn hẹp so với thông lệ quốc tế, khi mà vấn đề đặt ra được Bộ luật Dân sự các nước giải quyết là “quyền ưu tiên” nói chung, mà không chỉ bó hẹp ở phạm vi “quyền ưu tiên thanh toán” như Bộ luật Dân sự Việt Nam. 

Quy định về giao tài sản bảo đảm để xử lý

Lần đầu tiên Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về giao tài sản bảo đảm để xử lý. Cụ thể, theo Điều 301, “người đang giữ tài sản bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này. Trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”.

Theo quan điểm người viết, xét ở góc độ hợp đồng, trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm với thời gian nhanh nhất, ít tốn kém nhất và tuân thủ yếu tố khách quan, trung thực, thiện chí. Xét ở góc độ nghiên cứu thì xử lý tài sản bảo đảm là một trong những “trụ cột” của pháp luật về giao dịch bảo đảm.

Trong khi đó, để có thể thực hiện được các thỏa thuận hợp pháp về xử lý tài sản bảo đảm trên thực tế lại phụ thuộc nhiều vào thiện chí, tự nguyện của bên bảo đảm (chủ sở hữu tài sản), từ giao tài sản bảo đảm để xử lý, xác định phương thức xử lý tài sản bảo đảm, giá bán tài sản bảo đảm đến thủ tục chuyển quyền sở hữu cho người mua, người trúng đấu giá tài sản bảo đảm... Hệ quả tất yếu là việc xử lý tài sản bảo đảm và khả năng hiện thực hóa các thỏa thuận hợp pháp trở nên “bấp bênh”.

Trước thực tế chủ sở hữu tài sản bảo đảm (bên nhận bảo đảm) không hợp tác, con đường tố tụng (khởi kiện tại tòa án) để yêu cầu được xử lý tài sản và thu hồi nợ trở thành lựa chọn gần như là tất yếu của bên nhận bảo đảm, mặc dù trong nhiều vụ việc cụ thể vẫn không chắc chắn xử lý được tài sản bảo đảm, ngay cả khi bản án của tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật. Xét ở góc độ kinh tế, thì việc xử lý tài sản bảo đảm theo con đường tố tụng mất quá nhiều thời gian, thủ tục phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của bên nhận bảo đảm, làm phát sinh thêm chi phí xã hội, cũng như tạo “gánh nặng” cho nền kinh tế và cho chính nguồn lực ngân sách
nhà nước.

Do vậy, quy định nêu trên có thể xem là một tiến bộ của pháp luật dân sự khi tiếp cận với lý thuyết vật quyền, cũng như phù hợp với bản chất chung của giao dịch dân sự và yêu cầu của thực tiễn.

Đánh giá khách quan cho thấy, các quy định về quyền thu giữ trong Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn chưa đáp ứng được “kỳ vọng” của hoạt động xử lý tài sản bảo đảm ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Do đó, để tháo nút thắt về xử lý nợ xấu, pháp luật cần bảo vệ hài hòa lợi ích của các bên trong hợp đồng bảo đảm (bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm) và cao hơn nữa là bảo vệ lợi ích của cả nền kinh tế thì quy trình xử lý tài sản bảo đảm (bao gồm cả quyền thu giữ tài sản, quy trình khởi kiện…) phải thực sự nhanh chóng, hiệu quả hơn nữa.

Đầu tiên là tiếp cận vấn đề xử lý tài sản bảo đảm ở góc độ kinh tế thị trường, từ đó cho phép bên nhận bảo đảm thực thi ngay các quyền xác lập trên tài sản bảo đảm đã được thỏa thuận hợp pháp trong hợp đồng, cũng như giúp bên bảo đảm có khả năng tự mình xử lý khối tài sản bảo đảm và thu hồi “lợi ích bảo đảm” trên cơ sở thứ tự ưu tiên thanh toán được xác lập dựa trên thứ tự đăng ký quyền phát sinh từ việc nhận tài sản bảo đảm (đăng ký biện pháp bảo đảm).

Theo đó, cần bổ sung quy định viện dẫn việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn theo quy định của Luật Tố tụng dân sự khi giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng bảo đảm. Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần tạo lập những quy định mang tính cơ bản giúp bên nhận bảo đảm thực hiện được ngay các quyền hợp pháp đối với tài sản bảo đảm như quyền nhận chính tài sản bảo đảm, quyền bán tài sản bảo đảm mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu nếu vi phạm thỏa thuận đã được giao kết.

Ngoài ra, cần tạo lập hành lang pháp lý thúc đẩy việc bên nhận bảo đảm được quyền tiếp cận tài sản bảo đảm để xử lý nhanh chóng, hợp pháp. Theo đó, bên nhận bảo đảm có quyền tự mình thu hồi tài sản bảo đảm dựa trên nguyên lý “không vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội”.

Thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm cho thấy, nếu tiếp tục duy trì cơ chế xử lý như hiện nay thì thời gian xử lý tài sản bảo đảm sẽ kéo dài, các thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm không được thực hiện nghiêm túc. Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận hợp pháp của các bên trong hợp đồng, việc đề xuất giải pháp bên nhận bảo đảm được quyền thu giữ tài sản bảo đảm nhằm khắc phục bất cập nêu trên, đồng thời đây cũng là giải pháp phù hợp với nguyên tắc trong giao dịch bảo đảm (quyền của chủ nợ có bảo đảm). Dĩ nhiên, trên cơ sở các quy định chung nhất của Bộ luật Dân sự, các văn bản dưới luật sẽ quy định về các điều kiện, trình tự phải đáp ứng trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm để loại bỏ nguy cơ phát sinh các tiêu cực, vi phạm pháp luật, gây ra những hệ lụy về mặt xã hội.

Về tài sản thế chấp và hiệu lực của thế chấp tài sản

Điều 318 quy định: “Trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác” (khoản 1) và “trường hợp thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ gắn với tài sản đó thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thoả thuận khác” (khoản 2). Quy định về vấn đề này của Bộ luật Dân sự phù hợp với bản chất và mối quan hệ giữa vật chính với vật phụ.

Cũng tại Điều 318 quy định: “Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp thì tài sản gắn liền với đất cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Quy định này có thể xem là điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005. Kế thừa quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, khoản 4, Điều 318 quy định: “Trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì bên nhận thế chấp phải thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp. Tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho bên nhận thế chấp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Trường hợp bên nhận thế chấp không thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp thì tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm và bên thế chấp có nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận thế chấp”.

Như đã đề cập ở trên, quy định về tài sản thế chấp trong Bộ luật Dân sự năm 2015 cơ bản đã kế thừa quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. Ngoài ra, nhằm kịp thời giải quyết các vướng mắc phát sinh từ thực tế áp dụng pháp luật của Việt Nam thời gian qua, Bộ luật Dân sự đã bổ sung cơ chế pháp lý điều chỉnh trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp (khoản 3 Điều 318).

Nguyên nhân là do trong thời gian qua, khi giao kết hợp đồng, các bên không thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất hình thành sau thời điểm hợp đồng thế chấp được giao kết, dẫn đến khó khăn, tranh chấp trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm. Nhiều vụ việc thời gian qua cho thấy, bên thế chấp trong trường hợp này thường không hợp tác, không muốn bị xử lý đồng thời cả quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.

Do vậy, với quy định rõ ràng như trong Bộ luật Dân sự năm 2015, các bên có đủ cơ chế pháp lý cần thiết để giải quyết thực tế nêu trên, góp phần tạo sự ổn định cho các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại trong thực tiễn.

Như vậy, trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định liên quan đến tài sản thế chấp theo 3 nhóm: (i) tài sản hữu hình, (ii) tài sản bán hữu hình (hối phiếu, cổ phiếu, vận đơn) và (iii) tài sản vô hình. Trong đó, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội thì tài sản vô hình được dùng làm tài sản bảo đảm ngày càng tăng, với giá trị kinh tế ngày càng lớn. Chính vì vậy, nhiều chuyên gia nước ngoài đã khuyến cáo việc phân loại tài sản thế chấp là rất cần thiết, quan trọng vì có liên quan đến cơ chế pháp lý phù hợp điều chỉnh, trong đó phải kể đến vấn đề xác định hiệu lực đối kháng phù hợp với từng loại tài sản.

Một vấn đề khác, Điều 319, Bộ luật Dân sự quy định: “Hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác” và “thế chấp tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”. Cũng như đối với hợp đồng cầm cố tài sản, quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp bảo đảm nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cũng như hạn chế sự điều chỉnh của văn bản dưới luật về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.

Người viết đồng tình với các tiếp cận này, vì qua theo dõi cho thấy, không ít văn bản quy phạm pháp luật của các bộ thời gian qua đã “can thiệp” và làm “méo mó” ý chí của các bên về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Đây cũng chính là điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005.

Ngoài ra, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cụ thể, rõ ràng và phân tách giữa thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp với thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng là rất cần thiết. Thực tiễn cho thấy, trong thời gian qua, chính việc không phân biệt giữa thời điểm có hiệu lực của hợp đồng với thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng đã nảy sinh không ít nhầm lẫn, tranh chấp về thời điểm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Quy định tại Điều 319, Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể xem là một bước tiến của pháp luật dân sự.

Tuy nhiên, vẫn cần rà soát, bãi bỏ những quy định đi ngược với quy định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Ngoài ra, vấn đề liên quan đến “hiệu lực đối kháng” với người thứ ba cũng cần được làm rõ trong những trường hợp cụ thể, điển hình như: bên nhận thế chấp và người mua ngay tình trong hoạt động thương mại bình thường; bên nhận thế chấp và quyền ưu tiên của cơ quan thuế; bên nhận thế chấp và quyền ưu tiên của người được thi hành án; bên nhận thế chấp và bên cho vay (tài khoản tiền gửi, chứng khoán, thư tín dụng); bên nhận thế chấp và người mua quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán, hối phiếu nhận nợ, giấy nhận nợ có bảo đảm…

Về cầm giữ tài sản

Cũng như bảo lưu quyền sở hữu, biện pháp cầm giữ tài sản nếu nhìn ở góc độ biện pháp bảo đảm thì đây là biện pháp mới, lần đầu tiên được quy định tại chế định này của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Với số lượng 5 điều (từ Điều 346 đến Điều 350), Bộ luật Dân sự năm 2015 đã điều chỉnh các nội dung về khái niệm, về xác lập cầm giữ tài sản, quyền và nghĩa vụ của bên cầm giữ, cũng như các trường hợp dẫn đến chấm dứt cầm giữ tài sản. Quyền cầm giữ tài sản là biện pháp bảo đảm luật định, không cần có sự thỏa thuận giữa hai bên để xác lập quyền này.

Tuy nhiên, trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện một số vấn đề có liên quan sau đây: (i) Nội hàm khi định nghĩa về bảo lưu quyền sở hữu là quá rộng do phạm vi hợp đồng song vụ trong Bộ luật Dân sự là rất lớn. Quy định như Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể dẫn đến những rủi ro rất lớn cho các chủ thể khác có quyền liên quan đến tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ, vì vậy, nên chăng giới hạn quyền cầm giữ là chỉ áp dụng trong các trường hợp có việc cung cấp dịch vụ làm tăng giá trị của tài sản là đối tượng bị chiếm giữ;

(ii) Đối tượng của quyền cầm giữ chỉ nên áp dụng đối với động sản. Pháp luật nhiều nước khi quy định về bất động sản đều thừa nhận nguyên tắc công khai, đối kháng mà đối tượng là bất động sản thì phải thực hiện bằng phương thức đăng ký (cầm cố bất động sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng phải đăng ký mới làm phát sinh giá trị đối kháng với người thứ ba). Mặt khác, cơ chế chiếm giữ (nắm giữ) động sản để đối kháng với người thứ ba cũng đang được Bộ luật Dân sự năm 2015 tiếp cận;

(iii) Bổ sung quy định về thứ tự ưu tiên giữa bên có quyền cầm giữ với các chủ thể khác (ví dụ bên cầm cố, bên thế chấp), theo hướng bên có quyền cầm giữ luôn được ưu tiên cao nhất. Điều này phù hợp với bản chất của vật quyền bảo đảm pháp định (biện pháp bảo đảm được xác lập không phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng song vụ). Cũng như càng phù hợp hơn nếu chúng ta tiếp cận theo hướng thu hẹp nội hàm của khái niệm cầm giữ tài sản (chỉ áp dụng trong trường hợp phải cung cấp dịch vụ làm tăng giá trị của tài sản là đối tượng bị chiếm giữ);

(iv) Bổ sung các quy định về việc người khác thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ để lấy tài sản khỏi sự chiếm giữ của bên có quyền (ví dụ bên nhận thế chấp tài sản được quyền thanh toán tiền cho bên có quyền cầm giữ tài sản để có thể lấy tài sản về để xử lý tài sản bảo đảm). Cụ thể là, cách thức thực hiện nghĩa vụ “thay” như thế nào? Quyền và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp này được giải quyết ra sao?...

Những quy định cụ thể như vậy sẽ tạo lập hành lang pháp lý cần thiết, vừa khuyến khích việc thực hiện nghĩa vụ thay, vừa tránh được những tranh chấp giữa các bên trong quá trình thực hiện.

Với những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng cần tập trung rà soát toàn bộ các quy định của pháp luật hiện hành về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đặc biệt là các văn bản dưới luật để xác định rõ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, góp phần bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, dễ áp dụng trong thực tiễn ký kết, thực hiện các hợp đồng bảo đảm.

TS. Hồ Quang Huy
Đặc san Toàn cảnh Ngân hàng Việt Nam 2020

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục