Suýt bị thu hồi đất vì sai phạm
Những sai phạm trong quản lý, sử dụng đất tại CTCP Sản xuất và dịch vụ du lịch Chèm (Công ty Chèm) đã được nhắc đến từ nhiều năm trước, thậm chí được nhắc đến tại kỳ họp Quốc hội tháng 6/2010, song đến nay vẫn chưa được xử lý dứt điểm.
Trước đó, thực hiện kiểm tra hiện trạng sử dụng đất của công ty theo chỉ đạo của UBND TP.Hà Nội, Sở Tài nguyên và môi trường kết luận, Công ty Chèm có các hành vi vi phạm Luật Đất đai 2003 như không thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất; tự ý cho thuê, cho thuê lại bằng quyền sử dụng đất mà không đủ điều kiện theo quy định; sử dụng đất không đúng mục đích…
UBND TP.Hà Nội yêu cầu Công ty Chèm chấm dứt các vi phạm, đồng thời giao Sở Tài nguyên và môi trường lập hồ sơ trình thu hồi diện tích đất trên; giao Sở Tài chính, Cục Thuế Hà Nội xác định và truy thu nghĩa vụ tài chính đối với Công ty.
Tuy nhiên, sau khi có văn bản báo cáo, UBND TP.Hà Nội vẫn quyết định cho Công ty Chèm tiếp tục thuê 78.382,8 m2 đất để làm trụ sở, cơ sở kinh doanh, dịch vụ, kho bãi, ươm cây giống lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Từ năm 2015 đến nay, hoạt động của Công ty Chèm gặp khó khăn bởi những đơn vị thuê đất chây ỳ trả nợ, trong khi lãnh đạo Công ty “ôm đơn” đi kiện.
Cho thuê đất trá hình
Vụ kiện với Công ty TNHH Sản xuất thương mại và dịch vụ Hoàng Minh (Công ty Hoàng Minh) hồi tháng 9/2017 là lần thứ 2 Công ty Chèm phải “đáo tụng đình” trong 3 năm nay. Điểm chung của các vụ kiện là không đòi được đất cho thuê.
Công ty Chèm được cổ phần hóa từ Xí nghiệp Vật liệu xây dựng và chế biến lâm sản thuộc Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam. Từ năm 1961, Xí nghiệp được Ủy ban hành chính TP.Hà Nội ủy nhiệm sử dụng diện tích 84.900 m2 đất. Năm 2005, khi Công ty hoàn tất việc cổ phần hóa, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có văn bản đề nghị UBND TP.Hà Nội cho phép Công ty được thuê đất ổn định và sử dụng lâu dài.
Dù có đất, nhưng Công ty Chèm không sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Ban lãnh đạo cũ đã kêu gọi các cá nhân, tổ chức tham gia hợp tác sử dụng đất dưới hình thức hợp đồng hợp tác liên kết, nhưng thực chất là “chẻ đất” cho các đơn vị khác thuê lại với giá rẻ.
Điển hình, giai đoạn 2005-2006, Công ty Chèm liên kết với Công ty Hoàng Minh bằng 3 hợp đồng hợp tác. Trong đó, một hợp đồng thỏa thuận thể hiện Công ty góp mặt bằng, thu tiền khấu hao hạ tầng liên kết (bao gồm tiền thuê đất của Nhà nước) ở mức 7.200 đồng/m2/năm trong 12 tháng đầu (tương đương 36 triệu đồng). Những năm tiếp theo tăng lên 11.000 đồng/m2/năm (tương đương 55 triệu đồng).
Trước khi vụ việc được đưa ra tòa, hai bên ký biên bản thanh lý 3 hợp đồng liên kết trên. Song trên thực tế, các bên vẫn triển khai và hoạt động theo các nội dung và phương thức trong hợp đồng. Trong thời gian liên kết, Công ty Hoàng Minh chuyển cho Công ty Chèm 1,7 tỷ đồng, gồm 964 triệu đồng tiền sử dụng điện và 805 triệu đồng tiền khấu hao hạ tầng liên kết. Số tiền 805 triệu đồng thực chất là tiền Công ty Hoàng Minh trả tiền thuê đất.
Công ty Chèm cho rằng, từ năm 2010 đến nay, mặc dù hợp đồng đã thanh lý, nhưng Công ty Hoàng Minh vẫn chiếm dụng, không bàn giao mặt bằng, không thanh toán công nợ. Do đó, Công ty đã khởi kiện vụ việc ra tòa án, yêu cầu đối tác phải trả lại toàn bộ mặt bằng, nhà xưởng trên diện tích đất 2.470,9 m2, đồng thời thanh toán nốt tiền thuê đất hàng năm, tiền thuế đất sản xuất-kinh doanh phi nông nghiệp hàng năm và tiền chậm nộp tiền thuế đất hàng năm là 1,5 tỷ đồng.
Trong khi đó, Công ty Hoàng Minh tố, từ năm 2010 đến 2014, Công ty Chèm áp đặt truy thu số tiền 1,8 tỷ đồng, đẩy giá tiền thuê đất cao gấp 5 lần tiền thuê đất nộp cho ngân sách nhà nước hòng thu lợi bất chính. Công ty Hoàng Minh đề nghị Công ty Chèm phải thanh toán chi phí đầu tư xây dựng, sửa chữa cải tạo nhà xưởng theo kết quả định giá.
Tòa án nhân dân TP.Hà Nội xác định, hợp đồng liên kết để che giấu thỏa thuận không đúng quy định pháp luật, các bên đều hưởng lợi trên cơ sở tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước. Do đó, số tiền thuê đất phải sung công quỹ nhà nước. Tòa tuyên buộc Công ty Hoàng Minh phải tháo dỡ toàn bộ công trình tự xây dựng để trả lại mặt bằng và hoàn trả số tiền 826 triệu đồng là tiền thuê đất, thuế đất và tiền chậm nộp của tiền thuê đất.