
Xây dựng nhà máy điện khí mất 7-10 năm
“Thực tế triển khai một dự án điện khí cần thời gian từ 7-10 năm. Với tình hình đầu tư các dự án điện khí LNG như thời gian qua, để đạt mục tiêu đưa tất cả 15 dự án điện khí vào vận hành trước năm 2030 theo Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh là thách thức rất lớn, đặc biệt trong bối cảnh vẫn còn những vướng mắc về cơ chế, chính sách”, ông Mai Xuân Ba, Trưởng ban Ban Đầu tư xây dựng, Tổng công ty Khí Việt Nam (PV Gas), phát biểu tại Diễn đàn “Hiện thực hóa các mục tiêu của điều chỉnh Quy hoạch Điện VIII và giải pháp cho các nguồn điện đến năm 2030”, diễn ra mới đây tại TP.HCM.
Nhiều doanh nghiệp cho rằng, việc điều chỉnh Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 (Quy hoạch Điện VIII) giúp bổ sung các nguồn điện mới. Tuy vậy, để thực hiện được bản quy hoạch này đặt ra nhiều thách thức với doanh nghiệp.
Từ thực tế triển khai dự án, ông Mai Xuân Ba cho rằng, Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh đặt mục tiêu đến năm 2030 có thêm 15 nhà máy điện khí sử dụng LNG, với tổng công suất 25.624 MW là rất gấp, đòi hỏi nguồn vốn lớn và cơ chế, chính sách hỗ trợ mạnh mẽ mới có thể đạt mục tiêu.
Trong khi đó, hiện chưa có cơ chế hỗ trợ các nhà máy điện khí nội địa chuyển sang LNG có bao tiêu trong bối cảnh nguồn khí trong nước suy giảm, còn nhà cung cấp khí LNG nhập khẩu lại yêu cầu hợp đồng mua dài hạn.
Cũng gặp khó khăn trong việc đầu tư dự án nhà máy điện khí, bà Nguyễn Thị Thanh Bình, Chủ tịch Công ty cổ phần Tập đoàn Năng lượng T&T (T&T Energy) cho biết, quá trình chuyển dịch năng lượng đặt ra nhiều thách thức, đặc biệt về tỷ lệ đốt kèm, công nghệ, thị trường và nguồn cung hydrogen. Đây là bài toán khó không chỉ với nhà đầu tư, mà cả với cơ quan quản lý.
Theo bà Bình, các dự án điện khí cần vốn đầu tư rất lớn, nếu không được ngân hàng cho vay thì khó khả thi. Nhưng các khoản vay cho dự án năng lượng xanh lại chưa được Nhà nước hỗ trợ, khiến ngân hàng e dè.
Bà Bình thông tin thêm, T&T Energy hợp tác với doanh nghiệp Trung Quốc để sản xuất pin lưu trữ, dự kiến đưa ra thị trường vào đầu năm 2026. Bộ Công thương đang xây dựng khung giá cho dự án điện kết hợp sản xuất pin lưu trữ. Song đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể về khung giá, cơ chế “giá đỡ” cho pin lưu trữ.
Không chỉ doanh nghiệp sản xuất, ngay cả Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cũng gặp khó trong đầu tư các dự án truyền tải điện.
Ông Nguyễn Anh Tú, Phó trưởng ban Kế hoạch EVN chia sẻ, để thực hiện Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh, tổng nhu cầu vốn đầu tư lưới điện giai đoạn 2025-2030 là 18,1 tỷ USD. EVN đang xây dựng kế hoạch đầu tư giai đoạn 2026-2030, trong đó dự kiến khả năng thu xếp vốn là 240.505 tỷ đồng (bình quân 36.000 tỷ đồng/năm), nhưng chỉ có thể đáp ứng tối đa 40% khối lượng đầu tư theo Quy hoạch Điện VIII. “Quy mô đầu tư này vượt quá năng lực thực hiện của EVN và các đơn vị”, ông Tú nói.
Mặc dù Luật Điện lực (sửa đổi) và một số quy định pháp luật hiện hành đã mở đường cho nhà đầu tư tư nhân tham gia đầu tư lưới điện truyền tải, nhưng theo ông Tú, chính sách thu hút vốn, cơ chế đảm bảo thu hồi vốn và lợi nhuận đầu tư vẫn chưa đủ hấp dẫn. Chưa kể, trình tự, thủ tục triển khai dự án đầu tư xây dựng còn phức tạp, kéo dài, đặc biệt là các thủ tục liên quan đến chấp thuận chủ trương đầu tư, quy hoạch sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, bồi thường và giải phóng mặt bằng.
Cần cơ chế mạnh để tránh nguy cơ chậm tiến độ
Mục tiêu của Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh là đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo cung cấp đủ điện cho phát triển kinh tế với mức tăng trưởng GDP dự kiến khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021-2030 và khoảng 6,5-7,5%/năm giai đoạn 2031-2050. Đồng thời, Quy hoạch hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 theo cam kết của Việt Nam tại COP26.
Với nhiều cơ chế còn vướng mắc, doanh nghiệp tha thiết kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành tháo gỡ khó khăn để vừa đẩy mạnh đầu tư dự án nhằm cung cấp đủ điện cho sản xuất, vừa đảm bảo hiện thực hóa mục tiêu trong Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh.
Bà Nguyễn Thị Thanh Bình đề xuất, cần sớm ban hành cơ chế, hướng dẫn cụ thể để các dự án điện khí LNG khi vận hành có lộ trình rõ ràng: từ đảm bảo nguồn nhiên liệu, ký hợp đồng mua bán khí dài hạn, đến chuẩn bị phương án đốt kèm hydrogen để đáp ứng cam kết Net Zero của Chính phủ.
Về tín dụng, bà Bình cho rằng, dù Chính phủ khuyến khích cho vay dự án năng lượng xanh, song trên thực tế việc triển khai các khoản vay ưu đãi cho năng lượng xanh, năng lượng tái tạo vẫn chưa rõ ràng và hiệu quả. Do đó, đề nghị Chính phủ có giải pháp hỗ trợ về vốn vay đối với các dự án này để đảm bảo khả thi.
Ông Mai Xuân Ba thì đề xuất bổ sung cơ chế để các nhà máy điện khí hiện hữu sử dụng khí thiên nhiên được huy động tối đa theo khả năng cấp khí trong nước, phần thiếu hụt sẽ bổ sung bằng LNG. Đồng thời, xem xét ban hành cơ chế cho các nhà máy điện khí hiện hữu sử dụng cả khí thiên nhiên trong nước và khí LNG tái hóa được áp dụng theo Nghị định 56/2025/NĐ-CP và Nghị định 100/2025/NĐ-CP.
Đối với đường dây truyền tải điện, ông Nguyễn Anh Tú (EVN) kiến nghị, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan tiếp tục xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách đầu tư hấp dẫn để thu hút vốn tư nhân. Các chính sách cần đảm bảo minh bạch về giá phí truyền tải, cơ chế thu hồi vốn và lợi nhuận hợp lý cho nhà đầu tư.
Ông cũng đề nghị các bộ, ngành ban hành cơ chế phối hợp, thỏa thuận trách nhiệm giữa chủ đầu tư nguồn điện và đơn vị truyền tải để đảm bảo tiến độ đồng bộ, hiệu quả; đồng thời ưu tiên tập trung nguồn lực đầu tư lưới điện truyền tải cho các dự án khả thi.