Chuyển động thị trường:
- TTCK Việt Nam tăng: Cũng giống như những phiên giao dịch tuần trước, bước vào phiên giao dịch tuần này, dòng tiền vẫn có xu hướng chảy sang những nhóm cổ phiếu tiềm năng. Sáng nay, đà tăng của những mã đầu “P” đã bứt phá khá mạnh, vượt trội so với các cổ phiếu chứng khoán, đặc biệt là là những cổ phiếu trên HNX. Tuy nhiên, sự yếu đi của nhóm buechip khiến không khí giao dịch khá ảm đảm. Thị trường vẫn có những đợt rung lắc, nhưng lực cầu vẫn giúp các chỉ số không bị trượt xuống dưới tham chiếu. VN-Index tiếp tục thử thách trước mốc 615 điểm.
Kết thúc phiên giao dịch, chỉ số VN-Index tăng 2,87 điểm (+0,47%) lên 614,42 điểm; HNX-Index tăng 0,61 điểm (+0,67%) lên 90,93 điểm. Tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt gần 3.900 tỷ đồng, giảm hơn 10% so với phiên cuối tuần trước.
Hôm nay, nhà đầu tư nước ngoài mua ròng hơn 1,55 triệu đơn vị, nhưng về giá trị, khối này bán ròng 1,67 tỷ đồng.
- Thị trường chứng khoán Mỹ hồi phục trước báo cáo việc làm khả quan. Cụ thể, Bộ Lao động Mỹ vừa báo cáo, bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ trong tháng 9 tăng thêm 248.000 việc làm, cao hơn nhiều so với con số kỳ vọng, trong khi đó, tỷ lệ thất nghiệp giảm 0,2 điểm phần trăm, xuống 5,9%. Trong khi số liệu việc làm tháng 7 và tháng 8 cũng được điều chỉnh tăng thêm 69.000 việc làm. Báo cáo này cho thấy, nền kinh tế lớn nhất thế giới đã có những chuyển biến khả quan.
Kết thúc phiên giao dịch gần nhất (sáng sớm hôm 4/10 theo giờ Việt Nam), chỉ số Dow Jones tăng 208,64 điểm (+1,24%), lên 17.009,69 điểm. Chỉ số S&P 500 tăng 21,73 điểm (+1,12%), lên 1.967,90 điểm. Chỉ số Nasdaq tăng 45,43 điểm (+1,03%), lên 4.475,62 điểm.
Tuần này, tâm điểm lớn nhất của thị trường là cuộc họp chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với việc kết thúc chương trình mua trái phiếu hàng tháng. Với những cải thiện đáng kể trên thị trường lao động nói riêng và nền kinh tế nói chung, nhiều chuyên gia cho rằng, Fed sẽ tăng lãi suất sớm hơn dự kiến. Ngoài ra, thị trường cũng sẽ bước vào mùa báo cáo doanh thu quý III của các doanh nghiệp.
- TTCK châu Á tăng điểm trở lại: Bất chấp những bất ổn khi cuộc biểu tình đòi dân chủ ở Hồng Kong vẫn chưa chấm dứt, các nhà đầu tư vẫn hào hứng với chứng khoán khi dữ liệu việc làm ở Mỹ khả quan. Theo đó, thị trường chứng khoán châu Á đón nhận sắc xanh khi bước vào phiên giao dịch đầu tuần này.
Chỉ số Nikkei trên TTCK Nhật Bản tăng 182,3 điểm (+2,16%) lên 15.890,95 điểm; Chỉ số Hang Seng Index trên TTCK Hồng Kong tăng 250,48 điểm (1,09%) lên 23.315,04 điểm; chỉ số Shanghai Composite Index trên TTCK Thượng Hải (Trung Quốc) tăng 0,26%.
Tuy nhiên, việc biểu tình vẫn còn tiếp diễn tại Hồng Kong sẽ khiến đại lục đối diện với sự suy yếu đáng kế trong lượng khách du lịch và chắc chắn điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế thành phố.
Giá vàng SJC tăng 60.000 đồng/lượng. Giá vàng trong nước đầu giờ sáng nay giảm 30.000 đồng/lượng so với giá đóng cửa cuối tuần trước. Sau đó, giá vàng bắt đầu tăng trở lại và đến cuối ngày niêm yết tại mức 35,56 – 35,68 triệu đồng/lượng, tăng 60.000 đồng/lượng.
Giá vàng thế giới kết thúc phiên giao dịch cuối tuần trước đã xuyên thủng mốc 1.200 USD, xuống 1.190,7 USD/oz khi giảm tới 23,6 USD/oz. Trong phiên giao dịch đầu tuần này, giá vàng giao dịch trên sàn châu Á biến động nhẹ, với mức tăng không đáng kể. Tính đến 17H (theo giờ Việt Nam), giá vàng giao dịch trên sàn Kitco là 1.192,8 USD/oz.
Tuần này, thị trường vàng Trung Quốc hoạt động trở lại sau kỳ nghỉ lễ Quốc khánh, nhu cầu mua vàng của giới đầu tư Trung Quốc sẽ hỗ trợ cho giá vàng. Một số chuyên gia khác đánh giá, hoạt động săn hàng giá rẻ có thể sẽ giúp giá vàng cắt đà giảm trong tuần tới, đặc biệt nếu giá không giảm dưới 1.180 USD/oz, thì sự phục hồi mạnh có thể diễn ra. Trong ngắn hạn, quan điểm bi quan về giá vàng sẽ đảo chiều nếu giá vượt được các ngưỡng kháng cự then chốt là 1.224 USD/oz và 1.237 USD/oz.
Trong tuần, không có nhiều thông tin kinh tế quan trọng của Mỹ được công bố. Giới đầu tư sẽ quan tâm tới biên bản cuộc họp tháng 9 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) công bố vào ngày thứ Tư.
Trên thị trường ngoại hối, tỷ giá USD/VND đã hạ nhiệt so với tuần trước. Tỷ giá niêm yết tại một số ngân hàng:
Ngân hàng |
Tỷ giá (đồng/USD) |
Tăng giảm (đồng/USD) |
||
Mua vào |
Bán ra |
Mua vào |
Bán ra |
|
Vietcombank |
21.250 |
21.310 |
||
BIDV |
21.250 |
21.310 |
||
Vietinbank |
21.255 |
21.305 |
||
Argibank |
21.180 |
21.245 |
||
Techcombank |
21.210 |
21.320 |
||
Eximbank |
21.230 |
21.310 |
||
MBB |
21.170 |
21.320 |
||
ACB |
21.230 |
21.310 |
||
Sở GD NHNN |
21.200 |
21.400 |
||
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng: 1USD = 21.246 đồng |
- Thị trường trái phiếu thứ cấp tại Sở GDCK Hà Nội hôm nay có tổng cộng 19,05 triệu trái phiếu, trị giá 2.068 tỷ đồng được giao dịch, cụ thể như sau (xem bảng).
Mã TP |
Thời hạn |
Lợi suất |
KLGD |
GTGD |
TD1215132 |
12 Tháng |
4,0003 |
200.000 |
22.593.400.000 |
TD1316018 |
2 Năm |
4,2998 |
50.000 |
5.304.700.000 |
TD1417071 |
2 Năm |
4,4001 |
500.000 |
55.566.000.000 |
TD1417071 |
2 Năm |
4,3501 |
200.000 |
22.248.600.000 |
TD1217016 |
2 Năm |
4,46 |
500.000 |
61.077.000.000 |
TD1316019 |
2 Năm |
4,4998 |
500.000 |
56.539.000.000 |
TD1419081 |
3 - 5 Năm |
4,85 |
500.000 |
59.286.000.000 |
TD1419081 |
3 - 5 Năm |
5,1 |
500.000 |
58.777.000.000 |
TD1424173 |
10 Năm |
6,05 |
500.000 |
54.783.000.000 |
TD1424092 |
10 Năm |
6,1499 |
500.000 |
60.582.500.000 |
TD1424093 |
10 Năm |
6,16 |
400.000 |
45.064.000.000 |
HCMB14179 |
10 Năm |
10,6522 |
2.000.000 |
160.156.000.000 |
TD1424092 |
10 Năm |
6,54 |
500.000 |
59.057.000.000 |
TD1217036 |
3 Năm |
4,6701 |
1.000.000 |
119.381.000.000 |
TD1417077 |
3 Năm |
4,6399 |
500.000 |
52.807.500.000 |
TD1217036 |
3 Năm |
4,8699 |
1.000.000 |
118.868.000.000 |
TD1217038 |
3 Năm |
4,7001 |
500.000 |
57.390.000.000 |
TD1417078 |
3 Năm |
4,5499 |
500.000 |
52.761.500.000 |
TD1417078 |
3 Năm |
4,6999 |
500.000 |
52.568.000.000 |
TD1417079 |
3 Năm |
4,7799 |
500.000 |
51.950.000.000 |
TD1417079 |
3 Năm |
4,8 |
500.000 |
51.924.000.000 |
TD1417078 |
3 Năm |
4,6502 |
500.000 |
52.632.000.000 |
TD1217040 |
3 Năm |
4,95 |
500.000 |
57.243.000.000 |
TD1217036 |
3 Năm |
4,6 |
500.000 |
59.781.000.000 |
TD1417078 |
3 Năm |
4,8202 |
500.000 |
52.413.500.000 |
TD1417076 |
3 Năm |
4,7499 |
200.000 |
21.205.400.000 |
TD1417078 |
3 Năm |
4,6401 |
500.000 |
52.645.000.000 |
TD1217037 |
3 Năm |
4,9499 |
1.500.000 |
171.454.500.000 |
TD1417080 |
3 Năm |
4,7501 |
500.000 |
51.129.000.000 |
TD1419089 |
5 Năm |
4,9499 |
500.000 |
53.186.500.000 |
TD1419088 |
5 Năm |
4,9501 |
500.000 |
54.061.000.000 |
TD1419087 |
5 Năm |
4,83 |
500.000 |
55.097.000.000 |
TD1419089 |
5 Năm |
5,3001 |
500.000 |
52.420.500.000 |
TP4A0706 |
5 - 7 Năm |
7,7301 |
500.000 |
56.541.000.000 |