Chuyển động thị trường:
- TTCK Việt Nam giảm điểm: Thị trường mở cửa phiên đầu tuần với mức độ thận trọng tăng cao. Mặc dù ít phút đầu phiên điểm số khá mạnh, nhưng thanh khoản suy giảm đáng kể và độ rộng không tốt. Hầu hết cổ phiếu chỉ đứng tham chiếu trong khi một số ít cổ phiếu lớn vẫn tăng như VIC, VCB, GAS. Yếu tố điểm số không bộc lộ đúng bản chất thận trọng.
Với nhóm ngân hàng đã có sự phân hóa đáng kể, trong đó, sức mạnh của đà tăng đã không còn được như trước ở tất cả các cổ phiếu.
Tình trạng nguội lạnh của thị trường cũng thể hiện rất rõ ở cả các cổ phiếu đầu cơ nhỏ. Rất ít mã duy trì được sức nóng cần thiết.
Bước vào phiên giao dịch chiều, trong khi lực bán vẫn được duy trì, còn lực mua tỏ ra dè dặt khiến thị trường nhanh chóng đảo chiều. Càng về cuối phiên, đà giảm càng mạnh. bước vào đợt khớp lệnh xác định giá đóng cửa, lực mua đỡ giá được tung vào, giúp cả 2 chỉ số chính hãm bớt đà giảm.
Kết thúc phiên giao dịch, VN-Index giảm 0,57%, xuống 571,51 điểm; HNX-Index có mức giảm nhẹ hơn khi chỉ mất 0,11%, xuống 85,26 điểm. Tổng giá trị giao dịch giảm mạnh, chỉ đạt hơn 2.130 tỷ đồng.
Hôm nay, khối ngoại đã mua ròng 376.390 đơn vị, giảm 90,31% so với phiên trước. Tuy nhiên, tổng giá trị là bán ròng 73,33 tỷ đồng, trong khi phiên trước mua ròng 60,57 tỷ đồng.
- TTCK Mỹ tăng điểm: Với những dữ liệu kinh tế khả quan, chứng khoán Mỹ tăng điểm trở lại sau 5 phiên liên tục giảm.
Cụ thể, sản lượng sản xuất của nhà máy trong tháng 12 tăng 0,3% và là tháng thứ 4 liên tiếp tăng. Sản lượng khai thác tăng 2,2% nhờ vào sự gia tăng của sản lượng khai thác dầu và khí đốt.
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, chỉ số Dow Jones tăng 190,86 điểm (+1,10%), lên 17.511,57 điểm. Chỉ số S&P 500 tăng 26,75 điểm (+1,34%), lên 2.019,42 điểm. Chỉ số Nasdaq tăng 63,56 điểm (+1,39%), lên 4.634,38 điểm.
- TTCK châu Á tăng giảm đan xen: theo đó, chỉ số Hang Seng trên TTCK Hồng Kong giảm 365,03 điểm (-1,51%) xuống 23.738,49 điểm; chỉ số Shanghai trên TTCK Thượng Hải giảm 260,14 điểm (-7,7%) xuống 3.116,35 điểm; chỉ số Nikkei trên TTCK Nhật Bản tăng 150 điểm (+0,89%) lên 17.014 điểm.
- Giá vàng SJC giảm 40.000 đồng/lượng: Cuối tuần trước (17/1) giá vàng tiếp tục tăng thêm 140.000 đồng/lượng, lên mức 35,5 – 35,6 triệu đồng/lượng theo chiều tăng của vàng thế giới. Tuy nhiên, bước vào phiên giao dịch đầu tuần, giá vàng có sự điều chỉnh nhẹ, khi giá vàng thế giới giao dịch trên sàn châu Á có dấu hiệu đi xuống. Đến cuối ngày (19/1), giá vàng SJC niêm yết tại 35,46 – 35,56 triệu đồng/lượng, tức giảm 40.000 đồng/lượng ở cả chiều mua vào và bán ra.
Cùng thời điểm (theo giờ Việt Nam), giá vàng giao dịch trên sàn Kitco là 1.275,6 USD.oz.
Tuần trước, giá vàng thế giới tăng lên cao nhất trong vòng 4 tháng qua. Giá vàng tăng trong khi kinh tế châu Âu tăng trưởng chậm, làm dấy lên đồn đoán các nhà hoạch định chính sách sẽ tăng cường kích thích, làm tăng nhu cầu đối với phương tiện tích trữ. Lạm phát thấp cùng với các nền kinh tế nước ngoài tăng trưởng trì trệ có thể khiến Fed hoãn kế hoạch nâng lãi suất.
Trước diễn biến mới của giá vàng trong tuần trước, giới phân tích nhận định, tình trạng bất ổn tiếp diễn trên thị trường tài chính toàn cầu sẽ tiếp tục là nhân tố quan trọng hỗ trợ cho giá vàng trong tuần này. Hơn nữa, nhu cầu trú ẩn an toàn đã giúp giá vàng kết thúc tuần qua ở mức cao, điều này sẽ tiếp tục hỗ trợ giá vàng mặc dù chỉ ở trong khoảng ngắn hạn.
Trên thị trường ngoại hối, tỷ giá VND/USD được niêm yết trên một số ngân hàng:
Ngân hàng |
Tỷ giá (đồng/USD) |
Tăng giảm (đồng/USD) |
||
Mua vào |
Bán ra |
Mua vào |
Bán ra |
|
Vietcombank |
21.320 |
21.380 |
||
BIDV |
21.310 |
21.370 |
||
Vietinbank |
21.320 |
21.370 |
||
Argibank |
21.300 |
21.370 |
||
Techcombank |
21.290 |
21.380 |
||
Eximbank |
21.310 |
21.380 |
||
MBB |
21.300 |
21.380 |
||
ACB |
21.310 |
21.380 |
||
Sở GD NHNN |
21.350 |
21.600 |
||
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng: 1USD = 21.458 đồng |
- Thị trường trái phiếu thứ cấp tại Sở GDCK Hà Nội hôm nay có tổng cộng 30,38 triệu trái phiếu, trị giá 3.308 tỷ đồng được giao dịch, cụ thể như sau (xem bảng).
Mã TP |
Thời hạn |
Lợi suất |
KLGD |
GTGD |
BVDB14098 |
12 Tháng |
4,6197 |
1.000.000 |
103.306.000.000 |
TD1416064 |
12 Tháng |
4,8789 |
4.000.000 |
424.492.000.000 |
TD1315005 |
6 Tháng |
4,25 |
500.000 |
53.032.500.000 |
TD1217036 |
2 Năm |
4,75 |
500.000 |
60.388.500.000 |
TD1217039 |
2 Năm |
5,3183 |
1.500.000 |
172.305.000.000 |
TD1217038 |
2 Năm |
5,3194 |
1.000.000 |
114.833.000.000 |
TD1217037 |
2 Năm |
4,6999 |
500.000 |
58.239.500.000 |
TD1417073 |
2 Năm |
5,1708 |
1.000.000 |
108.948.000.000 |
TD1417073 |
2 Năm |
4,6201 |
500.000 |
55.028.000.000 |
TD1417076 |
2 Năm |
5,1656 |
1.000.000 |
106.576.000.000 |
TD1417079 |
2 Năm |
5,3143 |
1.000.000 |
104.068.000.000 |
TD1318027 |
3 - 5 Năm |
5,35 |
500.000 |
55.826.000.000 |
TD1318027 |
3 - 5 Năm |
5,3999 |
500.000 |
55.734.000.000 |
TD1419083 |
3 - 5 Năm |
5,5 |
500.000 |
57.152.500.000 |
TD1419087 |
3 - 5 Năm |
6,0501 |
500.000 |
53.387.000.000 |
BVDB14132 |
3 - 5 Năm |
6,7901 |
1.000.000 |
117.254.000.000 |
TD1323031 |
7 - 10 Năm |
7,0999 |
1.000.000 |
120.747.000.000 |
TD1323032 |
7 - 10 Năm |
6,3031 |
1.880.000 |
224.953.280.000 |
TD1417166 |
3 Năm |
4,8498 |
500.000 |
50.714.500.000 |
TD1417166 |
3 Năm |
4,8701 |
500.000 |
50.687.500.000 |
BVDB14121 |
3 Năm |
5,5 |
1.000.000 |
102.368.000.000 |
TD1318023 |
3 Năm |
4,88 |
1.500.000 |
175.401.000.000 |
TD1318024 |
3 Năm |
4,8501 |
1.000.000 |
116.799.000.000 |
TD1417080 |
3 Năm |
4,7798 |
500.000 |
51.780.000.000 |
TD1419090 |
5 Năm |
5,8 |
500.000 |
48.914.000.000 |
BVDB14139 |
5 Năm |
6,9899 |
1.000.000 |
100.431.000.000 |
TD1419090 |
5 Năm |
5,8 |
500.000 |
48.914.000.000 |
TD1520256 |
5 Năm |
5,87 |
500.000 |
50.314.000.000 |
TD1520256 |
5 Năm |
5,88 |
500.000 |
50.293.000.000 |
TD1419090 |
5 Năm |
6,03 |
500.000 |
48.458.000.000 |
TD1520256 |
5 Năm |
5,85 |
500.000 |
50.356.500.000 |
BVDB14139 |
5 Năm |
6,9899 |
2.000.000 |
200.862.000.000 |
TD1419089 |
5 Năm |
6,0299 |
500.000 |
51.733.500.000 |
TP4A0706 |
5 - 7 Năm |
5,5499 |
500.000 |
63.532.000.000 |