Năng lượng: Dầu và than tăng, khí LNG diễn biến trái chiều
Kết thúc tuần giao dịch cuối cùng của tháng 7, giá cả 2 loại giá dầu chủ chốt đều tăng mạnh và cũng là tháng tăng giá thứ tư liên tiếp.
Theo đó, trong phiên 30/7, giá dầu Brent giao tháng 9/2021 tăng 0,4% lên 76,33 USD/thùng, qua đó ghi nhận mức tăng 3% theo tuần và tăng 1,6% theo tháng. Giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 9/2021 cũng tăng 0,5% lên 73,62 USD/thùng, tính cả tuần tăng 2,6% và cả tháng tăng 0,7%.
Thị trường dầu tháng Bảy vừa qua chứng kiến sự biến động mạnh. Việc Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh ngoài khối, được gọi là OPEC+, không đạt được thỏa thuận chính sách vào đầu tháng này đã đẩy giá dầu lên mức cao mới trong năm 2021. Tuy nhiên, sau đó, OPEC+ nhất trí tăng nguồn cung thêm 400.000 thùng/ngày từ tháng Tám và điều này gây ra một đợt giảm giá dầu mạnh. Tuy vậy, một số chuyên gia phân tích cho rằng, mức tăng đó không đủ để đáp ứng nhu cầu dự kiến phục hồi trong năm nay.
Dữ liệu của Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho thấy, lượng dầu dự trữ của nước này đã giảm 4,1 triệu thùng trong tuần tính đến ngày 23/7/2021. Tương tự, lượng dầu lưu kho tại Trung tâm Cushing, bang Oklahoma (Mỹ) tiếp tục giảm. Tính tới chiều 27/7/2021, kho lưu trữ của Cushing có 36,299 triệu thùng dầu, giảm 360.917 thùng so với ngày 23/7/2021. Đây là lần giảm thứ bảy liên tiếp của trung tâm chuyên giao vận các hợp đồng năng lượng kỳ hạn Mỹ này.
Chuyên gia phân tích thị trường cấp cao Phil Flynn thuộc Công ty Tư vấn và môi giới đầu tư The Price Futures Group (Mỹ) cho rằng, lo ngại về khả năng nhu cầu dầu mỏ có thể được xóa tan do các biện pháp phong tỏa đã bị thổi phồng. Thực tế là nhu cầu nhiên liệu đã tăng lên khi nền kinh tế mở cửa trở lại, thị trường đang chứng kiến nguồn cung thắt chặt, khiến giá dầu tăng mạnh như hiện nay.
Tuy nhiên, biến thể Delta tiếp tục là yếu tố cản trở giá dầu. Số ca mắc Covid -19 tiếp tục tăng vào cuối tuần qua, với một số quốc gia báo cáo mức tăng kỷ lục hàng ngày và phải mở rộng các biện pháp hạn chế để ngăn sự lây lan của dịch bệnh. Trung Quốc, nhà nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới, cũng ghi nhận số ca mắc Covid-19 tăng mạnh.
Giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) cũng ghi nhận sự biến động trong tuần qua khi chứng kiến sự đi lên tại châu Á, trong khi thị trường Mỹ đi theo hướng ngược lại.
Các nguồn tin trong ngành cho biết, giá LNG trung bình ở Đông Bắc Á đạt 15,60 USD/mmBtu, tăng 1,15 USD so với tuần trước đó. Ngoại trừ mức giá đỉnh điểm vào tháng Giêng, đây là mức cao nhất kể từ năm 2014, vì mùa hè thời tiết nóng hơn bình thường làm tăng nhu cầu điện để cung cấp năng lượng cho máy điều hòa không khí.
Pakistan LNG là một trong những khách hàng đã đồng ý trả hơn 15 USD/mmBtu cho đợt giao hàng vào tháng 9/2021 nhằm tránh tình trạng thiếu điện, các nguồn tin trong ngành cho biết. Công ty này có nhu cầu giao dịch 7 chuyến hàng trong tháng 10 và tháng 11, đấu thầu kết thúc vào ngày 24/8/2021 và có hiệu lực cho đến ngày 8/9/2021.
Tại Mỹ, giá khí LNG giao sau giảm 14,5 US cent (-3,6%) xuống 3,914 USD/mmBtu trong ngày 30/7, mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 20/7/2021. Đó cũng là mức giảm tỷ lệ phần trăm hàng ngày lớn nhất trong tháng kể từ đầu tháng Tư và cả tuần giảm hơn 3% (tuần trước tăng gần 11%), nhưng tính cả tháng Bảy vẫn tăng khoảng 7%, tháng tăng thứ tư liên tiếp.
Với mặt hàng than, việc Chính phủ Trung Quốc tạm dừng khai thác một số mỏ than trước ngày nghỉ lễ từ 24/6 đến 5/7/2021 tại tỉnh khai thác lớn nhất Sơn Tây đã đẩy giá than 5.500 kcal/kg lên mức 152 USD/tấn.
Năm nay, mùa mưa ở Đông Bắc Úc có thể bắt đầu sớm hơn, dẫn đến các công ty phát điện từ Nhật Bản và Hàn Quốc tăng cường mua than Úc trên thị trường giao ngay. Sự thiếu hụt than của Úc tại thị trường châu Á - Thái Bình Dương đã tác động đến giá than Úc đạt 135 USD/tấn.
Giá than luyện cốc từ Úc tăng lên 195 USD/tấn do nguồn cung nguyên liệu cho thị trường xuất khẩu hạn chế và nhu cầu ngày càng tăng của các nhà máy luyện kim ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Nguồn cung than hạn chế xuất khẩu ở Indonesia đã hỗ trợ chỉ số than 5.900 GAR đạt 102 USD/tấn do mưa lớn ở miền Nam Indonesia và dịch Covid-19 bùng phát tại nước này.
Kim loại: Vàng và thép tăng giá, quặng sắt và đồng quay đầu giảm
Ở nhóm kim loại quý, mặc dù giảm giá trong phiên giao dịch cuối cùng của tháng Bảy, giá vàng vẫn ghi nhận mức tăng gần 1% trong tuần qua và gần 3% trong tháng nhờ một số yếu tố hỗ trợ như “hàng rào” chống lại lạm phát.
Cụ thể, kết thúc phiên 30/7, giá vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.814 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 8/2021 giảm 1% xuống 1.817,20 USD/USD, qua đó chấm dứt đà hồi phục ngắn ngủi của giá vàng sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trấn an rằng, hiện tại chưa xem xét vấn đề tăng lãi suất.
Phiên này, chỉ số USD-Index tăng 0,3%, làm giảm sức hấp dẫn của vàng đối với những nhà đầu tư nắm giữ các loại tiền tệ khác. Trong mấy phiên liên tiếp trước đó, chỉ số này giảm xuống thấp nhất trong vòng một tháng. Chỉ số đồng USD đo sức mạnh của “đồng bạc xanh” so với một giỏ gồm các đồng tiền chủ chốt khác giảm 0,8% trong tuần qua. Nếu USD tiếp tục suy yếu trong những ngày tới và lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ vẫn giảm, nhiều khả năng giá vàng sẽ vượt qua ngưỡng kháng cự hiện tại.
Trong tuần này, báo cáo về việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp của Mỹ có thể là tâm điểm chú ý của giới giao dịch vàng, vì số liệu này có thể ảnh hưởng đến quyết định của Fed về lộ trình giảm dần chương trình nới lỏng định lượng.
Về thị trường kim loại quý nói chung, đóng cửa tuần qua với diễn biến trái chiều. Cùng với vàng, giá bạch kim cũng giảm 1,25% về 1.049 USD/ounce, ngược lại, giá bạc tăng 1,26% lên 25,55 USD/ounce.
Giá bạc được hỗ trợ khi Fed tiếp tục duy trì các chính sách tiền tệ nới lỏng và làm mất giá USD. Trái lại, giá bạch kim ít được hưởng lợi hơn do vai trò trú ẩn an toàn không phổ biến như bạc, cộng thêm tác động tiêu cực từ việc các hoạt động sản xuất công nghiệp trên toàn cầu phục hồi yếu trong tháng Bảy. Bên cạnh đó, dòng tiền đổ vào nhóm kim loại quý cũng suy giảm rõ rệt, bởi các nhà đầu tư ưu tiên vốn cho thị trường chứng khoán Mỹ khi chỉ số S&P500 đã tăng điểm 6 tháng liên tiếp.
Ở nhóm kim loại công nghiệp, giá nhôm kỳ hạn giao sau 3 tháng tên sàn London tăng 0,1% lên 2.593 USD/tấn trong phiên 30/7, đánh dấu tháng tăng thứ 6 liên tiếp. Trong phiên, có thời điểm giá đạt 2.642 USD/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 4/2018. Dự trữ nhôm tại các kho của LME đã giảm gần 1/3 kể từ tháng 3/2021 xuống mức 1,39 triệu tấn.
Giá kẽm phiên này cũng tăng bởi tình trạng mất điện sau đợt mưa lũ ở tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), nơi có một số nhà máy kẽm lớn. Theo đó, kẽm kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,9% lên 3.025 USD/tấn.
Giá đồng cùng phiên giảm 1% xuống 9.725 USD/tấn, nickel giảm 1,5% xuống 19,545 USD/tấn, trong khi chì tăng 0,6% lên 2.378,5 USD/tấn, thiếc giảm 0,3% xuống còn 34,795 USD/tấn sau khi đạt mức kỷ lục 35,075 USD/tấn.
Tuy nhiên, nhìn chung, các kim loại màu đều tăng giá trong tháng 7 vừa qua.
Trong nhóm kim loại đen, giá quặng sắt giảm do những chính sách của Trung Quốc nhằm giảm sản lượng thép và hạ nhiệt giá vật liệu xây dựng, sản xuất.
Theo đó, giá quặng sắt giao dịch trên sàn Đại Liên kết thúc phiên 30/7 giảm mạnh, mất 8,1% xuống 1.027 CNY (158,95 USD)/tấn, tính chung cả tháng 7 đã giảm 8%, mức giảm nhiều nhất kể từ tháng 2/2020; quặng sắt trên sàn Singapore giảm 7,7% xuống 175,95 USD/tấn, giảm 16% trong vòng một tháng.
Trong khi đó, giá thép đồng loạt tăng trong phiên này: Thép cây giao dịch trên sàn Thượng Hải tăng 1% lên 5.705 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng (HRC) tăng 3,1% lên 6.120 CNY/tấn; thép không gỉ tăng 3,1% lên 20.065 CNY/tấn.
Nông sản: Tiếp tục giảm
Phiên cuối cùng của tháng 7/2021, giá ngô và đậu tương Mỹ giảm khoảng 2% bởi hoạt động bán tháo kỹ thuật và bán thanh lý kéo dài vào cuối tuần cũng như cuối tháng, đồng thời do một phần của vành đai trồng ngô ở Mỹ đã có mưa, giúp cho cây trồng phát triển. Giá lúa mì cũng giảm nhẹ phiên này, nhưng tính chung cả tháng vẫn ghi nhận sự tăng giá.
Cụ thể, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2021 trên sàn Chicago giảm 11-1/4 cent xuống 5,45-1/4 USD/bushel; đậu tương kỳ hạn tháng 11 giảm 28-1/2 cent xuống 13,49-1/4 USD/bushel, quạ đó ghi nhận tuần giảm thứ 2 liên tục, nhưng tính cả tháng vẫn tăng giá.
Giá úa mì kỳ hạn tháng 9/2021 cũng giảm 1-1/2 cent xuống 7,03-3/4 USD/bushel và có trọn cả tháng giảm giá.
Ở các khu vực Nam Dakota, Minnesota và bắc Iowa đã có mưa trong những ngày cuối tháng Bảy và một số dự báo cho thấy sắp tới sẽ có nhiều mưa hơn nữa, giúp cho cây trồng của những khu vực này phát triển tốt.
Nguyên liệu công nghiệp: Cà phê và đường giảm mạnh, cao su tăng giá
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2021 kết thúc phiên 30/7 giảm 0,39% (-2,1%) xuống 17,91 cent/lb. Đường trắng cùng kỳ hạn cũng giảm 5,70 USD (-1,3%) xuống 445,70 USD/tấn. Tính chung trong tháng 7, giá đường giảm bất chấp có nhiều phiên tăng khá mạnh.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tương lai trên sàn ICE kết thúc phiên 30/7 giảm mạnh do băng giá đêm qua tại nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới Brazil. Theo đó, cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2021 giảm 16,95 cent (-8,6%) xuống 1,7955 USD/lb, lùi xa mức cao nhất gần 7 năm đạt được vào tuần trước. Giá cà phê robusta cùng kỳ hạn giảm 99 USD (-5,3%) xuống 1.786 USD/tấn.
Trên sàn Osaka, giá cao su kỳ hạn tương lai tăng 1,6% lên 219,3 JPY (2 USD)/kg và cả tuần giá tăng 4,5%, nhiều nhất kể từ giữa tháng 2/2021. Trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2021 tăng 1,3% lên 13.420 CNY (2.078,94 USD)/tấn.
Giá dầu cọ Malaysia tăng tuần thứ 6 liên tiếp, cho dù giảm ở phiên 30/7 do giá tăng trước đó tác động đến nhu cầu. Dầu cọ kỳ hạn tháng 10/2021 trên Sàn giao dịch phái sinh Bursa Malaysia giảm 1,26% xuống 4.371 ringgit (tương đương 1.036,27 USD)/tấn. Tính chung cả tuần, giá tăng hơn 2%. Tình trạng thiếu lao động đang tác động đến ngành dầu cọ Malaysia. Bên cạnh đó, thị trường này còn bị ảnh hưởng bởi biến động giá các loại dầu thực vật khác.
Giá bông trên sàn ICE (Mỹ) vừa kết thúc tháng Bảy - tháng tăng giá mạnh nhất kể từ tháng 4/2021 do nhu cầu ổn định trên toàn cầu, cho dù giảm mạnh trong phiên cuối tháng. Theo đó, giá bông kỳ hạn tương lai giảm 1,02 US cent (-1,1%) xuống 89,29 cent/lb, sau khi đã giảm 1,6% ở phiên liền trước, do USD mạnh lên. Tuy nhiên, tính chung cả tháng 7, giá bông vẫn tăng khoảng 5%.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn) |