
Năng lượng: Giá dầu và than giảm mạnh, khí LNG bật tăng
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu giảm hơn 1% vào thứ Sáu (2/5) và giảm tuần mạnh nhất kể từ cuối tháng 3/2025, khi các nhà giao dịch trở nên thận trọng trước cuộc họp OPEC+ về quyết định chính sách sản lượng của nhóm trong tháng 6 tới.
Cụ thể, dầu thô Brent giảm 84 Uscent (-1,4%) xuống 61,29 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) giảm 95 Uscent (-1,6%) xuống 58,29 USD/thùng. Trong tuần, dầu Brent giảm hơn 8% và dầu WTI giảm khoảng 7,7%.
Các thành viên của nhóm OPEC+, bao gồm Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất lớn, đang cân nhắc có nên tăng sản lượng dầu nhanh hơn nữa vào tháng 6 hay duy trì mức tăng nhỏ hơn. OPEC+ hiện cắt giảm sản lượng hơn 5 triệu thùng mỗi ngày.
Các nhà giao dịch cũng đang dõi theo thông tin về việc Bắc Kinh hôm thứ Sáu cho biết, họ đang đánh giá đề xuất của Washington về việc tổ chức các cuộc đàm phán để giải quyết vấn đề thuế quan của Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho biết, giá dầu giảm vào thứ Sáu đã được hạn chế bởi thị trường chứng khoán tăng, sau khi dữ liệu việc làm của Mỹ cho thấy bảng lương tăng nhiều hơn dự kiến vào tháng 4.
Nhà phân tích dầu mỏ Alex Hodes của StoneX cho biết, các dấu hiệu về sự chậm lại trong tăng trưởng sản lượng dầu của Mỹ có thể hỗ trợ phần nào cho giá dầu trong dài hạn.
Dữ liệu từ nhà cung cấp dịch vụ mỏ dầu Baker Hughes cho thấy, các công ty khoan dầu của Mỹ đã cắt giảm số lượng giàn khoan dầu đang hoạt động lần đầu tiên sau 3 tuần. Số lượng giàn khoan dầu, một chỉ báo sớm về sản lượng trong tương lai, đã giảm 4 giàn xuống giàn trong tuần qua.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ tăng khoảng 8% lên mức cao nhất trong 1 tuần do dự báo nhu cầu tăng. Trước đó, giá đã giảm khoảng 2% xuống mức thấp nhất 5 tháng do sản lượng tăng và dự báo thời tiết ôn hòa cho đến giữa tháng 5 sẽ hạn chế nhu cầu sưởi ấm và làm mát, cho phép các công ty tiện ích tiếp tục đưa nhiều khí đốt hơn bình thường vào kho lưu trữ.
Cụ thể, giá khí đốt tương lai NGc1 giao tháng 5/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York (NYMEX) tăng 23,3 cent (+7,9%,) lên 3,17 USD/mmBTU - mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 17/4.
Sau khi thời tiết lạnh vào tháng 1 và tháng 2 thúc đẩy nhu cầu khí đốt, tổng lượng khí đốt trong kho thấp hơn khoảng 1% so với mức bình thường vào thời điểm này trong năm.
Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã tăng lên 106,5 tỷ feet khối mỗi ngày vào tháng 4 từ mức kỷ lục hàng tháng là 106,2 bcfd vào tháng 3.
LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ giảm từ 99,2 bcfd trong tuần này xuống 97,4 bcfd vào tuần tới.
Trên thị trường than, giá than nhiệt châu Âu đã giảm xuống dưới 95 USD/tấn trước áp lực giá khí đốt giảm và lượng hàng xuất khẩu từ Mỹ tăng.
Giá khí đốt tại trung tâm giao dịch khí đốt TTF Hà Lan giảm về mức 398,79 USD/1.000 m3 (giảm 16,83 USD/1.000 m3) trong bối cảnh dự trữ khí đốt của châu Âu tăng từ 35% lên 38%. Lượng khí đốt rút ra trong tháng 4/2025 thấp hơn 22% cùng kỳ năm trước, trong khi lượng khí đốt được bơm vào cao hơn 4%.
Giá than nhiệt lượng CV cao 6.000 của Nam Phi đã giảm xuống dưới 86 USD/tấn, theo thị trường châu Âu, cùng với nhu cầu yếu đi từ các nhà sản xuất Ấn Độ khi nước này ngày càng đáp ứng được nhu cầu của nguồn cung trong nước.
Tại Trung Quốc, giá giao ngay đối với than 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo đã giảm xuống dưới 93 USD/tấn trong bối cảnh lượng hàng tồn kho cao tại các cảng và nhà máy điện. Một yếu tố tiêu cực khác là việc hoàn thành bảo trì tuyến đường sắt Daqin dự kiến sẽ sớm hơn 5 ngày so với kế hoạch, điều này sẽ dẫn đến tăng trưởng vận tải đường sắt từ mức hiện tại là 1-1,1 triệu tấn/ngày lên 1,2-1,25 triệu tấn/ngày. Ngoài ra, các vùng sản xuất than chính của Trung Quốc đã báo cáo sản lượng mạnh vào tháng 3 và quý I/2025. Khai thác than tại 4 tỉnh đạt tổng cộng 983 triệu tấn trong tháng 1-3/2025 (tăng 10% cùng kỳ năm trước), đã gây áp lực đáng kể lên giá.
Giá than 5.900 GAR của Indonesia giảm xuống 81 USD/tấn, giá than 4.200 GAR tiếp tục ở mức dưới 48 USD/tấn. Ấn Độ và Trung Quốc vẫn đang cung vượt cầu.
Giá than nhiệt điện cao cấp 6.000 của Úc giảm xuống dưới 92 USD/tấn, do nhu cầu giảm sút ở các thị trường cao cấp bao gồm Nhật Bản và Hàn Quốc. Vào tháng 3, Hàn Quốc đã cắt giảm lượng than nhiệt nhập khẩu xuống mức thấp nhất 18 năm để ứng phó với tình trạng sản xuất điện hạt nhân và năng lượng tái tạo tăng cao (lượng nhập khẩu tích lũy giảm xuống dưới 5 triệu tấn, mức thấp nhất kể từ giữa năm 2007). Xu hướng này được dự báo sẽ tiếp diễn cho đến tháng 7.
Chỉ số than luyện kim HCC của Úc tăng trên 190 USD/tấn do nguồn cung bị cắt giảm. Nhu cầu mạnh hơn từ Ấn Độ và việc đóng cửa một trong những mỏ ở Queensland trong gần 10 ngày sau trận lũ cũng hỗ trợ giá than.
Kim loại: Giá vàng giảm mạnh, quặng sắt và thép cũng đi xuống, đồng ngược dòng thị trường
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm và ghi nhận tuần giảm thứ hai liên tiếp do căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc dịu đi, kết hợp với một báo cáo việc làm mạnh mẽ.
Cụ thể, vàng giao ngay giảm 0,4% xuống 3.228,5 USD/ounce và giảm 2,6% trong tuần, sau khi tăng lên mức kỷ lục 3.500,05 USD/ounce vào ngày 22/4. Ngược lại, vàng Mỹ kỳ hạn tháng 6/2025 tăng 0,6% lên 3.243,3 USD/ounce.
Bộ thương mại Trung Quốc cho biết, Mỹ đã nhiều lần bày tỏ thiện chí đàm phán về thuế quan và cánh cửa của Bắc Kinh luôn rộng mở cho các cuộc đàm phán.
Số liệu cho thấy, bảng lương phi nông nghiệp đã tăng 177.000 việc làm vào tháng 4. Một cuộc khảo sát của Reuters đã dự báo mức tăng 130.000 việc làm. Các nhà đầu tư đã cắt giảm cược rằng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ giảm lãi suất ngay vào tháng 6 tới sau báo cáo việc làm.
Lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm của Mỹ tăng. Lãi suất cao hơn có xu hướng khiến vàng thỏi kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng tăng do những dấu hiệu Mỹ và Trung Quốc tiến gần hơn tới một giải pháp cho cuộc chiến thương mại căng thẳng đang diễn ra. Cụ thể, đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 2% lên 9.387 USD/tấn, sau khi tăng gần 1% trong phiên liền trước.
Đồng Comex kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 0,6% lên 4,66 USD/lb, khiến mức cộng của đồng Comex với đồng LME là 881 USD/tấn, do nhà đầu tư cố gắng tính toán mức thuế quan tiềm tàng của Mỹ đối với kim loại này.
Trong ngày 30/4, đồng giảm 3% bởi số liệu yếu từ Trung Quốc và lo lắng về thuế quan của Mỹ làm giảm tăng trưởng toàn cầu. Khả năng tăng giá bị hạn chế với mức kháng cự mạnh tại đường trung bình động 50 ngày là 9.476 USD/tấn.
Nhà phân tích Amy Gower tại Morgan Stanley lưu ý rằng, kỳ vọng ông Donald Trump sẽ áp thuế đối với đồng đã dẫn đến dòng chảy kim loại mạnh mẽ vào Mỹ và thắt chặt thị trường đồng giao ngay.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt DCE (sàn giao dịch Đại Liên của Trung Quốc) giảm 0,7% về 709 CNY/tấn (tương đương 97,2 USD/tấn). Tại Singapore, giá quặng sắt chuẩn giao tháng 5 giảm nhẹ 0,07% về 98,35 USD/tấn.
Cùng với giá quặng sắt, các thành phần sản xuất thép khác trên sàn DCE như than luyện kim và than cốc cũng giảm lần lượt 1,25% và 1,27%.
Nguyên nhân chủ yếu của sự sụt giảm này đến từ thông tin Trung Quốc đang xem xét kế hoạch cắt giảm sản lượng thép thô tới 50 triệu tấn trong năm nay. Động thái này nhằm kiểm soát sản lượng trong bối cảnh cung vượt cầu và lo ngại về ô nhiễm môi trường.
Ở chiều ngược lại, Ấn Độ đang đẩy mạnh các biện pháp đảm bảo an ninh nguồn cung, trong đó có việc khuyến khích doanh nghiệp nước này tìm mua lại các tài sản quặng sắt và than cốc ở nước ngoài.
Thị trường quốc tế cũng trở nên bất ổn hơn khi xuất hiện những tín hiệu trái chiều từ phía Mỹ và Trung Quốc liên quan đến các cuộc đàm phán thương mại. Trong khi Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố các cuộc đàm phán đang diễn ra, thì phía Trung Quốc lại phủ nhận thông tin này. Bộ trưởng Tài chính Mỹ Scott Bessent cũng từ chối xác nhận phát ngôn của Tổng thống.
Trên sàn tương lai Thượng Hải (SHFE), giá thép ghi nhận sự biến động nhẹ. Thép cây giao tháng 10/2025 giảm 11 CNY xuống 3.127 CNY/tấn. Giá thép cây giao ngay tăng 0,42%; thép cuộn cán nóng tăng 0,81%; trong khi thép dây giảm 0,54% và thép không gỉ giảm khoảng 0,1%.
Diễn biến thị trường cho thấy, ngành thép toàn cầu vẫn đang chịu áp lực lớn từ các yếu tố kinh tế, chính sách sản lượng và thương mại quốc tế, đồng thời tiềm ẩn nhiều biến động trong thời gian tới.
Nông sản: Lúa mì và đậu tương tăng giá, đi ngược với ngô
Giá lúa mì tương lai của Sàn giao dịch Chicago (CBOT) - Mỹ tăng vào thứ Sáu (2/5) khi thị trường phục hồi từ mức thấp gần đây. Cụ thể, lúa mì mùa Đông đỏ mềm tháng 7 (WN25) tăng 12 cent lên 5,43 USD/giạ sau khi thiết lập mức thấp là 5,2325 USD/giạ vào thứ Tư; lúa mì cứng đỏ mùa Đông KC tháng 7 (KWN25) tăng 13,75 cent lên 5,4125 USD/giạ sau khi thiết lập mức thấp nhất trong hợp đồng là 5,25 USD/giạ vào thứ Năm; lúa mì Xuân tháng 7 tại Minneapolis (MWEN25) tăng 15,05 cent lên 6,11 USD/giạ.
Các nhà giao dịch đang chờ Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ công bố bản cập nhật hàng tuần về tình hình cây trồng lúa mì Đông và việc trồng lúa mì Xuân vào hôm nay (5/5). Theo công ty dự báo thời tiết Vaisala, mưa và nhiệt độ ấm áp ở vùng đồng bằng Mỹ vào cuối tháng 5 sẽ thúc đẩy sự phát triển của lúa mì cứng đỏ mùa Đông.
Giá ngô tương lai CBOT giảm ở các hợp đồng gần đây và tăng ở các hợp đồng hoãn lại. Cụ thể, hợp đồng ngô tháng 7 (CN25) giảm 3,25 cent xuống 4,69 USD/giạ; hợp đồng ngô tháng 12 (CZ25), đại diện cho vụ mùa sẽ được thu hoạch vào mùa thu, tăng 3 cent lên 4,5025 USD/giạ.
Các nhà giao dịch cho hay, không thấy lý do cơ bản mạnh mẽ nào cho sự sụt giảm trong hợp đồng tương lai vụ mùa cũ và sự tăng trưởng trong hợp đồng tương lai vụ mùa mới. Họ cho biết, nhu cầu xuất khẩu ngô vụ cũ vẫn vững chắc vì giá ngô tại Hoa Kỳ hấp dẫn trên thị trường thế giới và nguồn cung tại quốc gia đối thủ Brazil bị hạn chế.
Tuần qua, mưa đã làm chậm tiến độ trồng ngô ở Hoa Kỳ, mặc dù các thương nhân cho biết, họ hy vọng nông dân sẽ nhanh chóng trồng ngô khi thời tiết tốt hơn.
Công ty Vaisala cho biết, thời tiết khô ráo sẽ mở ra cơ hội cho nhiều công việc đồng áng hơn ở Corn Belt vào tuần này, mặc dù mưa sẽ làm chậm tiến độ trồng trọt ở vùng Đông Nam Trung Tây.
Các nhà phân tích cho biết, giá đậu tương CBOT tăng do hy vọng căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, nước nhập khẩu hạt có dầu lớn nhất thế giới, sẽ dịu bớt.
Cụ thể, hợp đồng đậu tương CBOT tháng 7 (SN25) tăng 7,75 cent lên 10,58 đUSD/giạ. Trong khi đó, dầu đậu tương giao tháng 7 (BON25) giảm 0,27 cent xuống 49,43 cent/pound, còn bột đậu nành giao tháng 7 (SMN25) tăng 2,6 USD lên 296,9 USD/tấn ngắn.
Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết, Bắc Kinh đang “đánh giá” lời đề nghị từ Washington về việc đàm phán về mức thuế quan khắc nghiệt của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, báo hiệu khả năng hạ nhiệt cuộc chiến thương mại đã làm chao đảo thị trường toàn cầu.
Thị trường đậu nành (ZS1!) tăng trưởng kéo dài sau khi đóng cửa ở mức cao hơn vào thứ Năm trong sự đảo ngược từ mức thấp nhất 2 tuần của hợp đồng hoạt động mạnh nhất.
Các nhà môi giới cho biết, hoạt động mua kỹ thuật và sức mạnh của bột đậu nành CBOT đã hỗ trợ cho mức tăng ngày thứ Sáu. Một số nhà giao dịch cũng mua đậu nành và bán ngô trong các giao dịch chênh lệch giá.
Nguyên liệu công nghiệp: Giá ca cao và cao su bật mạnh, cà phê và đường cũng nhích tăng
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua (2/5), giá đường thô kỳ hạn trên sàn ICE (SB1!) chỉ tăng nhẹ 0,04 cent (+0,2%) lên 17,20 cent/pound, sau khi rơi xuống mức thấp nhất kể từ tháng 7/2021 tại 16,97 cent/pound và tính chung cả tuần giá giảm 5,4%. Hợp đồng đường trắng kỳ hạn SF1! giảm 0,8% về 489,7 USD/tấn và giảm 4,7% trong tuần.
Commerzbank nhận định, sức ép lên thị trường đường chủ yếu đến từ nguồn cung dồi dào tại Brazil cùng với triển vọng nhu cầu kém do suy thoái kinh tế toàn cầu. Trước đó, FAO cho biết, chỉ số giá đường toàn cầu tháng 4 đã giảm 3,5%.
Citi giữ quan điểm trung lập với đường ICE, cho rằng sản lượng tại Brazil và Ấn Độ có khả năng sẽ tiếp tục tăng mạnh. Dự báo mới nhất từ Citi cho thấy, giá đường có thể ổn định quanh mức 19 cent/pound trong 3 tháng tới (giảm 2 cent so với trước đó) và đạt 20 cent/pound trong vòng 12 tháng (giảm 3 cent). Dự kiến cán cân cung - cầu toàn cầu sẽ chuyển từ mức thâm hụt 4,8 triệu tấn trong niên vụ 2024-2025 sang dư thừa nhẹ 0,2 triệu tấn trong niên vụ 2025-2026.
Hợp đồng cà phê Arabica (KC2!) trên sàn ICE nhích tăng 0,75 cent (+0,2%) lên 3,854 USD/pound sau khi chạm đỉnh 2,5 tháng là 4,1890 USD/pound hôm thứ Ba. Tuy nhiên, giá vẫn giảm 3,6% trong tuần qua.
Citi dự đoán giá cà phê sẽ điều chỉnh trong thời gian tới do sản lượng từ Brazil, nước sản xuất lớn nhất thế giới có khả năng đạt mức cao. Cùng lúc, số liệu từ Bộ Nông nghiệp Uganda cho thấy, lượng cà phê xuất khẩu tháng 3/2025 đã gần gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái.
Trái lại, cà phê Robusta (RC2!) tăng mạnh 3,2% lên 5.291 USD/tấn, phản ánh sự phân hóa giữa 2 dòng sản phẩm khi cung - cầu thay đổi theo khu vực.
Giá ca cao New York (CC2!) tăng 134 USD (+1,5%) lên 8.877 USD/tấn trong phiên cuối tuần qua, nhưng vẫn giảm 5% cả tuần. Dù phục hồi nhẹ, xu hướng điều chỉnh vẫn hiện hữu khi Citi nhận định đà tăng giá khó duy trì trong bối cảnh sản lượng xay xát suy yếu và diện tích trồng mở rộng ngoài khu vực Tây Phi.
Tại London, giá ca cao (C2!) giảm 0,7%, về mức 6.328 bảng/tấn.
Giá cao su Nhật Bản tăng phiên thứ 4 liên tiếp và ghi nhận tuần tăng, được hỗ trợ bởi đồng JPY yếu và dấu hiệu tiến triển trong các cuộc đàm phán thương mại của Washington với Trung Quốc.
Cụ thể, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 10/2025 trên sàn giao dịch Osaka tăng 2,9 JPY (+0,99%) lên 196,9 JPY (2,04 USD)/kg và tăng 2,63% trong tuần.
Tỷ giá USD được giao dịch ở mức 145,17 JPY/USD sau khi chạm mức 145,91 JPY/USD - cao nhất kể từ ngày 10/4/2025. Đồng JPY yếu hơn khiến các tài sản định giá bằng đồng bạc này rẻ hơn cho người mua bằng các ngoại tệ khác.
Trong khi đó, cơ quan khí tượng của Thái Lan, nước sản xuất cao su hàng đầu, đã cảnh báo về mưa lớn và lũ quét ở miền Nam từ ngày 2-5/5 có thể ảnh hưởng tới sản lượng.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
![]() |
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |