Năng lượng: Giá dầu giảm 4%, khí LNG cũng giảm 5%; giá than châu Âu, Nam Phi tăng, nhưng than Trung Quốc, Indonesia và Úc giảm
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng do có tin Iran đang chuẩn bị một cuộc tấn công trả đũa vào Israel từ Iraq trong những ngày tới, nhưng sản lượng kỷ lục của Mỹ hạn chế mức tăng.
Cụ thể, giá dầu Brent giao sau tăng 29 cent (+0,4%) lên 73,10 USD/thùng. Dầu thô Tây Texas (WTI) của Mỹ tăng 23 cent (+0,3%) lên 69,49 USD/thùng. Tuy nhiên, tính cả tuần, dầu Brent giảm khoảng 4% và dầu WTI giảm khoảng 3%.
Giá dầu cũng được hỗ trợ bởi kỳ vọng OPEC+ có thể trì hoãn kế hoạch tăng sản lượng dầu tháng 12/2024 thêm 1 tháng hoặc hơn do lo ngại về nhu cầu dầu yếu và nguồn cung tăng.
Khi OPEC+ kìm hãm sản lượng, tập đoàn dầu khí Exxon Mobil của Mỹ cho biết sản lượng toàn cầu của họ đạt mức cao nhất mọi thời đại, trong khi Chevron cũng cho hay, sản lượng tại Mỹ đạt mức cao kỷ lục.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA) cho biết, các công ty khoan dầu đã khai thác kỷ lục 13,5 triệu thùng dầu mỗi ngày (bpd) trong tuần qua. Riêng sản lượng trong tháng 8 đạt mức kỷ lục 13,4 triệu thùng/ngày và sản lượng hàng năm đang trên đà đạt mức kỷ lục 13,2 triệu thùng/ngày trong năm 2024 và 13,5 triệu thùng/ngày vào năm 2025.
Các nhà kinh tế đang kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản vào thứ Năm tuần này. Sau khi tăng lãi suất mạnh mẽ vào năm 2022 và 2023 để chế ngự lạm phát tăng vọt, Fed bắt đầu hạ lãi suất vào tháng 9/2024. Lãi suất thấp hơn làm giảm chi phí đi vay, có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nhu cầu về dầu.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm gần 5% trong phiên cuối tháng 10 do dự kiến lượng dự trữ lớn hơn bình thường và dự báo thời tiết ôn hòa sẽ kéo dài cho đến giữa tháng 11, khiến nhu cầu sưởi ấm thấp hơn và cho phép các công ty tiện ích tiếp tục bổ sung nhiều khí đốt vào kho hơn bình thường trong ít nhất vài tuần nữa.
Cụ thể, hợp đồng tương lai LNG giao tháng 12/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 13,8 cent (-4,9%) xuống 2,707 USD/mmBtu. Phiên trước đo, hợp đồng này đóng cửa ở mức giá cao nhất kể từ ngày 4/10/2024.
EIA cho biết, các công ty tiện ích đã bổ sung 78 tỷ feet khối (bcf) khí đốt vào kho lưu trữ trong tuần kết thúc vào ngày 25/10/2024. Con số này thấp hơn một chút so với dự báo của các nhà phân tích về mức tăng 82 bcf trong cuộc thăm dò của Reuters và so với mức tăng 77 bcf trong cùng kỳ năm trước và mức tăng trung bình 5 năm (2019-2023) là 67 bcf vào thời điểm này trong năm. Đây là lần đầu tiên các công ty tiện ích bổ sung thêm khí đốt vào kho lưu trữ nhiều hơn bình thường trong 2 tuần liên tiếp kể từ tháng 10/2023. Những đợt bơm khí này đã thúc đẩy lượng dự trữ tăng lên khoảng 5% so với mức trung bình 5 năm.
Tập đoàn Tài chính LSEG thông tin, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ giảm xuống còn 101,7 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) cho đến nay trong tháng 10, giảm so với mức 101,8 bcfd vào tháng 9. LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng từ 99,5 bcfd trong tuần này lên 100,9 bcfd vào tuần tới.
Lượng khí đốt chảy vào bảy nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã tăng lên mức trung bình 13,1 bcfd cho đến nay trong tháng 10, tăng từ mức 12,7 bcfd vào tháng 9. Con số này so với mức cao kỷ lục hàng tháng là 14,7 bcfd vào tháng 12 năm 2023.
Trên thị trường than, trong tuần kết thúc ngày 26/10, chỉ số than nhiệt châu Âu đã tăng trên 121 USD/tấn. Giá được hỗ trợ bởi sự tăng giá của giá khí đốt sau khi nguồn cung từ mỏ Oseberg của Na Uy giảm đột xuất, cũng như dự báo về một đợt lạnh mạnh vào tháng 11.
Giá than nhiệt lượng CV 6.000 của Nam Phi cũng tăng trên 110 USD/tấn nhờ nhu cầu ổn định từ người tiêu dùng Ấn Độ. Những người tham gia thị trường kỳ vọng hoạt động mua vào sẽ tăng sau kỳ nghỉ lễ vào cuối tháng 10 (Lễ hội Ánh sáng Diwali - ngày lễ chính của người Hindu - được tổ chức vào ngày 31/10).
Tại Trung Quốc, giá giao ngay đối với than 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo đã điều chỉnh xuống dưới 121 USD/tấn. Shenhua, nhà cung cấp lớn nhất, một lần nữa cắt giảm giá mua từ các nhà sản xuất bên thứ ba. Điều này đã làm nản lòng một số người tham gia thị trường, khách hàng đang kỳ vọng giá sẽ tăng sau khi nhiệt độ giảm mạnh ở các tỉnh miền bắc và miền trung của đất nước. Hơn nữa, nhu cầu từ các nhà sản xuất xi măng, than cốc và hóa chất đã chậm lại. Một số thậm chí còn dự báo rằng do nguồn cung trong nước đủ nên giá FOB tại các cảng biển của nước này có thể biến động trong phạm vi hẹp trong suốt mùa đông.
Giá than nhiệt lượng 5.900 GAR của Indonesia ở mức 93,8 USD/tấn, tăng 0,8 USD/tấn so với tuần trước, trong khi giá than 4.200 GAR giảm xuống mức 52,3 USD/tấn (giảm 0,2 USD/tấn so với tuần trước). Trong khi đó, thị trường không cho thấy nhu cầu mua đáng kể đối với vật liệu của Indonesia, do lượng hàng tồn kho cao và giá thấp hơn tại thị trường Trung Quốc.
Tại Úc, loại than CV 6.000 giảm xuống dưới 143 USD/tấn. Một trong những lý do là nhu cầu giao ngay yếu hơn. Chỉ số than luyện kim HCC của Úc tiếp tục giảm xuống dưới 200 USD/tấn. Giá than PCI của Úc giảm xuống dưới 160 USD/tấn, chịu ảnh hưởng của việc điều chỉnh giá than luyện kim, bất chấp những hạn chế về nguồn cung hiện tại. Hơn nữa, nhu cầu yếu từ người tiêu dùng Trung Quốc đã tác động tiêu cực thêm đến giá PCI.
Kim loại: Giá vàng ngắt chuỗi tăng, thép cũng giảm, đồng và quặng sắt đi lên
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm do USD và lợi suất trái phiếu kho bạc mạnh hơn, nhưng dữ liệu tăng trưởng việc làm yếu từ Mỹ khiến các nhà phân tích tăng đặt cược vào việc cắt giảm lãi suất từ Fed, hạn chế đà giảm giá.
Cụ thể, vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 2.736,28 USD/ounce. Giá vàng kỳ hạn của Mỹ ổn định ở mức 2.749,2 USD/ounce.
Bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ đã tăng 12.000 việc làm vào tháng 9, mức tăng nhỏ nhất kể từ tháng 12/2020, do sự gián đoạn từ các cơn bão và các cuộc đình công của công nhân nhà máy hàng không vũ trụ.
Các nhà kinh tế nhận thấy 100% khả năng Fed cắt giảm 25 điểm cơ bản vào tuần này, so với 91% cơ hội trước dữ liệu việc làm. Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy cuộc đua sít sao giữa ông Donald Trump và bà Kamala Harris trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ hôm thứ Ba.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,7% về 32,42 USD/ounce, platinum tăng 0,3% lên 990,45 USD/ounce, trong khi palladium giảm 0,4% về 1.101,25 USD/ounce.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng tăng khi mức tăng việc làm tháng 10 đáng thất vọng của Mỹ đã củng cố cơ hội cắt giảm lãi suất của Fed và làm suy yếu USD.
Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,5% lên 9.554,5 USD/tấn. Giá kim loại công nghiệp được hỗ trợ bởi đồng USD yếu hơn, khiến kim loại định giá bằng “đồng bạc xanh” rẻ hơn đối với những người nắm giữ ngoại tệ.
Thị trường đồng đang theo dõi kết quả bầu cử Mỹ vì điều này có thể ảnh hưởng đến quy mô gói kích thích kinh tế của Trung Quốc nhằm hồi sinh nền kinh tế mong manh của nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới. Bắc Kinh cân nhắc phát hành thêm hơn 10.000 tỷ CNY (1,4 nghìn tỷ USD), một gói tài khóa sẽ được củng cố hơn nữa nếu ông Trump đắc cử.
Liệu gói kích thích có thể cung cấp cho lĩnh vực công nghiệp Trung Quốc hay không vẫn là một câu hỏi quan trọng đối với các nhà đầu tư kim loại. Hoạt động sản xuất tháng 10 của Trung Quốc đã tăng trở lại lần đầu tiên trong 6 tháng, với sự cải thiện trong các đơn đặt hàng xuất khẩu gần cuối năm.
Cũng trên sàn LME, giá nhôm giảm 0,8% xuống 2.598 USD/tấn; chì tăng 0,7% ở mức 2.034 USD/tấn; niken tăng 1,4% lên 15.945 USD/tấn; kẽm tăng 1% lên 3.059 USD/tấn và thiếc tăng 2,1% lên 31.840 USD/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn trên sàn Đại Liên (DCE), Trung Quốc ghi nhận mức tăng hàng tuần, ngay cả khi giá chạm mức thấp nhất trong một tuần vào thứ Sáu (ngày 1/11) khi các nhà đầu tư cân nhắc triển vọng nhu cầu toàn cầu mềm hơn so với dữ liệu kinh tế tốt hơn từ nước tiêu thụ hàng đầu này và triển vọng kích thích hơn nữa từ Bắc Kinh.
Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2025 được giao dịch nhiều nhất trên sàn DCE giảm 1,47% về 770,5 CNY (108,17 USD)/tấn. Hợp đồng này trước đó đã giảm xuống mức 764,5 CNY/tấn - thấp nhất kể từ ngày 25/10. Tuy nhiên, giá vẫn tăng 0,65% trong tuần.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2024 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 1,38% xuống 102,25 USD/tấn trong phiên 1/11, nhưng tăng 2,35% trong tuần.
Giá nhà mới của Trung Quốc tăng với tốc độ nhanh hơn trong tháng 10, cho thấy các biện pháp hỗ trợ gần đây có thể có một số tác động ban đầu trong một thị trường bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng. Hoạt động sản xuất tại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã tăng trưởng trở lại vào tháng 9 khi sự mở rộng các đơn đặt hàng mới dẫn đến tăng trưởng sản xuất.
Tuy nhiên, các đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã giảm xuống mức thấp nhất trong 8 tháng, báo hiệu nhu cầu bên ngoài suy yếu, vốn là một trong những động lực chính đằng sau hiệu suất sản xuất mạnh hơn dự kiến trong phần lớn năm 2024, các nhà phân tích của ING cho biết.
Trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải, giá thép cây giảm gần 1,2%; thép cuộn cán nóng giảm gần 0,9%; thanh thép giảm 1,67% và thép không gỉ giảm khoảng 0,1%.
Nông sản: Ngô tăng giá, đi ngược với đậu tương và lúa mì
Giá ngô kỳ hạn tại Chicago tăng khi nhu cầu xuất khẩu ngô Mỹ tăng lên và áp lực thu hoạch giảm bớt. Ngược lại, giá đậu tương kỳ hạn quay đầu giảm trong phiên giao dịch ảm đạm sau khi tăng trước đó nhờ doanh số xuất khẩu của Mỹ. Giá lúa mì kỳ hạn cũng giảm khi mưa trên các vùng khô hạn của Mỹ đè nặng lên giá, mặc dù hạn hán ở Đồng bằng Mỹ và triển vọng vụ mùa kém của Úc đã tạo ra một mức sàn cho giá.
Cụ thể, hợp đồng ngô giao dịch tích cực nhất trên sàn CBOT tăng 3-3/4 cent lên 4,14-1/2 USD/bushel, nhưng giảm 0,18% trong tuần. Hợp đồng đậu tương hoạt động mạnh nhất giảm 3/4 cent về 9,93-3/4 USD/bushel và lúa mì giảm 2-1/2 cent về 5,68 USD/bushel và cả 2 hợp đồng này giảm gần 0,2% trong tuần.
Nhu cầu xuất khẩu mạnh mẽ đang củng cố hợp đồng tương lai đậu tương và ngô khi nông dân Mỹ kết thúc vụ thu hoạch lớn nhất kỷ lục trong lịch sử. Nhu cầu đối với cây trồng của Mỹ tăng lên sau khi kỳ vọng thu hoạch lớn đẩy giá xuống.
Nguyên liệu công nghiệp: Đường, cà phê, cao su đều giảm giá
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2025 giảm 1,5% xuống 22,39 cent/lb, rút khỏi mức đỉnh 3 tuần trước đó là 23 cent/lb. Đường trắng kỳ hạn tháng 12/2024 cũng giảm 1,4% xuống 568,6 USD/tấn.
Các đại lý cho biết, thị trường đường vẫn đang trên đà tăng, được thúc đẩy bởi nguồn cung thắt chặt, từ đó có thể khiến giá dễ bị đẩy lên nếu có bất kỳ vấn đề cây trồng đáng kể nào xảy ra ở các nước sản xuất chính.
Giá cà phê robusta kỳ hạn giảm xuống mức thấp nhất 2,5 tháng với vụ thu hoạch tại Việt Nam sẽ tăng tốc trong tháng 11 này. Cụ thể, cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2025 giảm 1,8% xuống 4.290 USD/tấn, sau khi thiết lập mức thấp nhất 2,5 tháng là 4.259 USD/tấn.
Các đại lý cho biết xuất khẩu mạnh cà phê conilon (robusta) từ Brazil trong niên vụ này cũng đang đè nặng lên giá. Cụ thể, cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 1,5% xuống 2,4230 USD/lb, với trọng tâm vẫn là mức độ mưa gần đây sẽ giúp vụ cà phê Brazil phục hồi sau đợt khô hạn kéo dài.
Giá cao su kỳ hạn của Nhật Bản giảm xuống mức thấp nhất 2 tháng do triển vọng nguồn cung toàn cầu vững chắc hơn gây áp lực lên thị trường, trong khi JPY mạnh hơn làm tăng thêm sự sụt giảm.
Cụ thể, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 4/2025 của Sở giao dịch Osaka (OSE) giảm 7,4 JPY (-2,06%) xuống 351,1 JPY (2,3 USD)/kg trong phiên 1/11 và giảm 5,8% trong tuần. Hợp đồng này trước đó đã giảm 3,12% về 346,5 JPY/kg - mức thấp nhất kể từ ngày 9/9/2024.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giảm 45 CNY (-0,25%) về 17.785 CNY (2.496,63 USD)/tấn và ghi nhận mức giảm 1,72% trong tuần. Hợp đồng cao su giao tháng 12/2024 tại Sở giao dịch Singapore (SICOM) giảm 0,2% xuống 195,2 US cent/kg.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua