Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 25/10-1/11: Giá kim loại trái chiều, dầu giảm tháng thứ 3 liên tiếp, đậu tương cao nhất 5 năm

(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 25/10-1/11, trong khi giá vàng thế giới ghi nhận tuần giảm thứ 2 liên tiếp, dầu thô cũng giảm 3 tháng liên tục, thì nhiều mặt hàng khác duy trì tốt đà tăng, trong đó đồng và quặng sắt tăng liền 3-4 tháng, đậu tương có tháng tăng mạnh nhất 5 năm…
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 25/10-1/11: Giá kim loại trái chiều, dầu giảm tháng thứ 3 liên tiếp, đậu tương cao nhất 5 năm

Năng lượng: Giá dầu giảm 3 tháng liên tục, khí LNG tăng trở lại

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới giảm vào thứ Sáu (31/10) và ghi nhận tháng giảm thứ ba liên tiếp, do đồng USD mạnh hơn và dữ liệu kinh tế yếu của Trung Quốc đã hạn chế đà tăng, trong khi nguồn cung tăng từ các nhà sản xuất lớn trên toàn cầu.

Cụ thể, dầu thô Brent giảm 36 cent (-0,55%) về 64,64 USD/thùng trong phiên và giảm 1,32% trong tuần; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 43 cent (-0,71%) về 60,14 USD/thùng trong phiên và giảm 0,85% trong tuần.

Các nhà phân tích của Ngân hàng ANZ cho biết trong một báo cáo: “Đồng USD mạnh lên đã tác động tiêu cực đến tâm lý nhà đầu tư trên toàn bộ thị trường hàng hóa”. “Đồng bạc xanh” đã được hỗ trợ sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Jerome Powell cho biết hôm thứ Tư rằng, việc cắt giảm lãi suất vào tháng 12 là không chắc chắn.

Giá dầu cũng giảm sau khi một cuộc khảo sát chính thức cho thấy hoạt động sản xuất của Trung Quốc đã giảm tháng thứ 7 liên tiếp trong tháng 10.

Tính chung tháng 10, giá dầu Brent và WTI lần lượt giảm 2,6% và 2% do nguồn cung tăng dự kiến sẽ vượt quá mức tăng trưởng nhu cầu trong năm nay, với việc Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các nhà sản xuất lớn ngoài OPEC đang tăng cường sản lượng để giành thị phần.

OPEC+ đang nghiêng về khả năng tăng sản lượng khiêm tốn trong tháng 12. Tám thành viên OPEC+ đã tăng mục tiêu sản lượng thêm tổng cộng hơn 2,7 triệu thùng mỗi ngày - tương đương khoảng 2,5% nguồn cung toàn cầu - trong một loạt các đợt tăng hàng tháng.

Trong khi đó, dữ liệu từ Sáng kiến dữ liệu chung của các tổ chức (JODI) cho thấy, xuất khẩu dầu thô từ nhà xuất khẩu hàng đầu Sudi Arabia đã đạt mức cao nhất 6 tháng là 6,407 triệu thùng mỗi ngày trong tháng 8 và dự kiến sẽ còn tăng thời gian tới. Một báo cáo của Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cũng cho thấy sản lượng kỷ lục 13,6 triệu thùng/ngày vào tuần trước.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ tăng khoảng 4% lên mức cao nhất 4 tháng trong tuần qua, lưu lượng gần đạt kỷ lục đến các nhà máy xuất khẩu LNG và sản lượng giảm trong tháng 10.

Cụ thể, giá LNG giao tháng 12/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York (NYMEX) tăng 14,1 cent (+3,6%) lên 3,956 USD/mmBtu.

EIA cho biết, các công ty năng lượng đã bơm 74 tỷ feet khối (bcf) khí đốt vào kho lưu trữ trong tuần kết thúc vào ngày 24/10.

LSEG thông tin, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm xuống còn 107,0 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) tính đến cuối tháng 10, giảm so với mức 107,5 bcfd của tháng 9 và mức cao kỷ lục hàng tháng là 108,0 bcfd vào tháng 8.

Theo công ty này, lượng khí đốt trung bình vào 8 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã tăng lên 16,5 bcfd tính đến cuối tháng 10, tăng từ mức 15,7 bcfd của tháng 9 và mức cao kỷ lục hàng tháng là 16,0 bcfd vào tháng 4.

LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ duy trì ở mức khoảng 108,5 bcfd trong 2 tuần tới.

Kim loại: Vàng giảm tuần thứ 2 liên tiếp, đồng tăng tháng thứ 3 liên tiếp và với quặng sắt 4 tháng liên tục

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng thế giới giao ngay trên thị trường châu Á chốt tuần qua đứng ở mức 4002,28 USD/ounce, giảm 109,82 USD/ounce (-2,74%) so với tuần trước nữa. Trong tuần, vàng thế giới có 1 phiên tăng và 4 phiên giảm giá, với mức giảm thấp nhất về 3.930,61 USD/ounce. Như vậy, đây là tuần thứ 2 liên tiếp vàng giảm giá, chốt tuần về sát mốc 4.000 USD/ounce.

Kể từ đầu năm 2025, giá vàng đã tăng mạnh từ mức 2.700 USD/ounce lên đỉnh 4.381 USD/ounce hồi đầu tháng 10, tương đương mức tăng khoảng 51%. Đợt điều chỉnh hiện nay được xem là giai đoạn “hạ nhiệt” sau chuỗi tăng kéo dài.

Thị trường vàng quốc tế đang trong giai đoạn “chững nhịp” sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) hạ lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm vào ngày 29/10, đưa biên độ mới xuống 3,75- 4%/năm, đúng như kỳ vọng của giới phân tích.

Bên cạnh đó là hoạt động chốt lời diễn ra sau nhịp tăng mạnh từ đầu năm, cộng với tín hiệu tích cực từ thương mại. Tổng thống Mỹ Donald Trump thông báo đã đạt được thỏa thuận với Hàn Quốc và bày tỏ lạc quan về khả năng đạt được thỏa thuận tương tự với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, trước cuộc gặp diễn ra vào thứ Năm (30/10).

Căng thẳng địa chính trị Trung Đông dịu bớt, trong khi nhiều người kỳ vọng xung đột Ukraine có tiến triển hòa bình.

Theo chuyên gia Robert McNally, cựu cố vấn năng lượng Nhà Trắng, “đợt điều chỉnh này là tín hiệu lành mạnh. Nếu vàng chỉ có tăng mà không giảm, đó mới là điều đáng lo. Thị trường đang tự điều tiết trước khi bước vào giai đoạn cân bằng mới”.

Cú rơi mạnh khiến nhiều tổ chức tài chính lớn bắt đầu thay đổi dự báo giá vàng. Citigroup vừa hạ khuyến nghị đầu tư vàng từ mức “mua vượt trội” xuống “thận trọng” và cho rằng, đà tăng đã đi quá xa so với các yếu tố cơ bản. Hầu hết nhà phân tích đều đồng thuận rằng, vàng sẽ dao động trong biên độ 3.950-4.150 USD/ounce trong ngắn hạn, trước khi có xu hướng rõ ràng hơn sau cuộc họp chính sách tiền tệ của Fed vào tháng 12 tới.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng giảm trong phiên 31/10 do USD mạnh lên, song vẫn tăng hàng tháng trong bối cảnh lo ngại dai dẳng về nguồn cung.

Cụ thể, giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,52% về 10.860 USD/tấn. Tính trong tháng 10, giá đồng tăng 5,81% - cũng là tháng tăng thứ ba liên tiếp.

Hợp đồng đồng được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giảm 1,67% xuống 87.010 CNY (12.215,36 USD/tấn). Tuy vậy, hợp đồng này cũng ghi nhận tháng tăng thứ 3 liên tiếp với mức tăng 4,79%.

Chỉ số đồng USD gần đây nhất tăng 0,38%, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 1/8/2025 vào đầu phiên. Đồng USD mạnh hơn khiến các tài sản định giá bằng “đồng bạc xanh” trở nên khó tiếp cận hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.

Mối lo ngại về nguồn cung đồng đã gia tăng gần đây, khi nhiều công ty khai thác hàng đầu báo cáo sản lượng thấp hơn trong 9 tháng đầu năm 2025.

Các nhà phân tích từ ngân hàng đầu tư Citi vẫn lạc quan về đồng, dự kiến giá sẽ tăng cao hơn vào năm 2026 do kỳ vọng nhu cầu theo chu kỳ mạnh hơn và hạn chế nguồn cung từ các mỏ.

Các nhà phân tích từ ANZ cho biết, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đồng ý với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình về việc cắt giảm thuế quan đối với Trung Quốc để đổi lấy việc Bắc Kinh trấn áp nạn buôn bán fentanyl bất hợp pháp, nối lại việc mua đậu nành của Mỹ và duy trì xuất khẩu đất hiếm.

Mặc dù thỏa thuận này được cho là sẽ ổn định quan hệ Mỹ - Trung, nhưng tình trạng gián đoạn nguồn cung từ các mỏ gần đây tiếp tục gây áp lực lên ngành công nghiệp luyện kim của Trung Quốc, với phí xử lý giảm xuống mức âm khi các nhà máy luyện kim tranh giành thị phần trong bối cảnh nguồn cung đang giảm dần.

Cũng trên sàn LME, giá nhôm giảm 0,35% về 2.853,5 USD/tấn; niken giảm 0,26% về 15.190 USD/tấn; chì giảm 0,25% về 2.017 USD/tấn; kẽm giảm 0,38% về 3.026 USD/tấn; trong khi thiếc tăng 0,3% lên 35.900 USD/tấn.

Còn sàn SHFE, giá nhôm tăng 0,16% lên 21.300 CNY/tấn; chì tăng 0,17% lên 17.390 CNY/tấn; trong khi niken giảm 0,54% về 120.590 CNY/tấn; thiếc giảm 0,27% về 283.910 CNY/tấn; kẽm giảm 0,29% về 22.355 CNY/tấn.

Ở nhóm kim loại đen, giá thép thanh kỳ hạn tháng 6/2026 trên sàn SHFE giảm 21 CNY về 3.156 CNY/tấn. Thép giao ngay tại Trung Quốc cũng lùi về 3.080 CNY/tấn, thấp hơn mức đỉnh 2 tháng 3.120 CNY/tấn ghi nhận ngày 28/10/2025 do sức mua trong nước tiếp tục yếu.

Giá nguyên liệu đầu vào sản xuất thép cũng trong xu hướng giảm. Giá quặng sắt giao tháng 1/2026 trên sàn Đại Liên (DCE) giảm 0,56% xuống 800 CNY (112,31 USD/tấn) trong phiên 31/10, nhưng cả tuần vẫn tăng khoảng 3% nhờ kỳ vọng cải thiện quan hệ thương mại Mỹ - Trung.

Tương tự, tại Singapore, hợp đồng quặng sắt chuẩn tháng 12/2025 giảm 0,19% về 106,25 USD/tấn trong phiên 31/10, nhưng cũng tăng khoảng 3% cả tuần và ghi nhận chuỗi tăng 4 tháng liên tiếp

Giá than cốc và than mỡ luyện kim trên sàn DCE lần lượt giảm 0,92% và 1,11%. Dù vậy, giá than nội địa Trung Quốc vẫn đạt mức cao nhất gần 1 năm, khiến chi phí luyện thép tiếp tục bị đẩy lên cao.

Theo Mysteel, sản lượng kim loại nóng trung bình hàng ngày tại Trung Quốc giảm 1,5% so với tuần trước, về mức 2,36 triệu tấn; tồn kho tại cảng tăng 0,8%. Chỉ số PMI xây dựng ở mức 49,1 điểm - thấp hơn ngưỡng 50 điểm cho thấy lĩnh vực này suy yếu tháng thứ 3 liên tiếp, phản ánh nhu cầu thép nội địa tiếp tục đi xuống.

Hoạt động sản xuất công nghiệp của nước này cũng giảm tháng thứ 7 liên tiếp, khiến triển vọng phục hồi của ngành thép thêm mờ nhạt. Các chuyên gia cho rằng, thị trường đã phản ánh hết yếu tố vĩ mô và chuyển trọng tâm sang nhu cầu thực tế vốn đang giảm rõ rệt.

Thị trường thép Trung Quốc vẫn chịu sức ép lớn từ nhu cầu xây dựng yếu và chi phí đầu vào cao. Tuy nhiên, chính sách kiểm soát công suất của Bắc Kinh được kỳ vọng sẽ hạn chế nguồn cung mới, qua đó kìm hãm đà giảm giá. Trung Quốc cũng đang siết chặt cơ chế hoán đổi công suất, cấm bổ sung năng lực mới tại các khu vực trọng điểm và hạn chế chuyển giao giữa các vùng.

Một số doanh nghiệp lớn như Baosteel và Hesteel vẫn duy trì lợi nhuận ổn định trong quý III/2025, nhưng phần lớn các nhà sản xuất nhỏ gặp khó về chi phí và tiêu thụ. Giới phân tích nhận định, xuất khẩu sẽ tiếp tục là điểm tựa quan trọng giúp ngành duy trì sản lượng trong bối cảnh nhu cầu nội địa yếu.

Nông sản: Đồng loạt tăng giá, đậu tương tăng mạnh nhất 5 năm

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua 31/10, trên sàn Chicago (CBOT), giá lúa mì mùa Đông đỏ mềm giao tháng 12 (WZ25) tăng 9,75 cent lên 5,34 USD/giạ. Hợp đồng được giao dịch nhiều nhất (ZW1!) tăng 4,2% trong tuần.

Tại các sàn khác, lúa mì cứng đỏ mùa Đông tháng 12 (KWZ25) tăng 11,05 cent lên 5,2405 USD/giạ, còn lúa mì Xuân tháng 12 (MWEZ25) tăng 2,05 cent lên 5,53 USD/giạ.

Giá lúa mì kỳ hạn CBOT bật tăng cùng xu hướng với đậu tương, được thúc đẩy bởi thông tin Mỹ và Trung Quốc đạt thỏa thuận thương mại mới. Theo Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Scott Bessent, Bắc Kinh đã cam kết mua 12 triệu tấn đậu nành Mỹ trước tháng 1/2026 và 25 triệu tấn mỗi năm trong 3 năm tiếp theo.

Dù thỏa thuận chưa đề cập trực tiếp đến mặt hàng lúa mì và ngô, nhưng giới đầu tư vẫn kỳ vọng Trung Quốc xem xét định giá và tăng nhập khẩu lúa mì Mỹ.

Tương tự, giá đậu tương kỳ hạn CBOT tăng mạnh trong phiên cuối tuần (31/10), đạt mức cao nhất 15 tháng và ghi nhận tháng tăng mạnh nhất kể từ năm 2020.

Cụ thể, hợp đồng đậu tương tháng 1 (SF26) tăng 7,05 cent lên 11,1525 USD/giạ; hợp đồng sôi động nhất (ZS1!) tăng lên 11,1575 USD/giạ - cao nhất kể từ ngày 8/7/2024. Trong tuần, hợp đồng chính tăng 7,1% và ghi nhận tháng tăng mạnh nhất từ tháng 12/2020.

Các sản phẩm chế biến biến động trái chiều: Bột đậu nành tháng 12 (SMZ25) tăng 6 USD lên 321,60 USD/tấn ngắn, trong khi dầu đậu nành tháng 12 (BOZ25) giảm 0,97 cent về 48,68 cent/pound - mức thấp nhất từ tháng 6/2025.

Động lực chính đến từ cam kết mua hàng lớn của Trung Quốc, trong đó Bắc Kinh đồng ý mua tổng cộng 12 triệu tấn đậu nành trước tháng 1/2026 và 25 triệu tấn mỗi năm trong 3 năm tới.

Theo Bloomberg, Trung Quốc đã mua thêm 4 lô đậu nành Mỹ ngay sau khi thỏa thuận được công bố, củng cố kỳ vọng về nhu cầu nhập khẩu mạnh hơn trong thời gian tới.

Trên sàn CBOT, hợp đồng ngô kỳ hạn tháng 12 (CZ25) tăng nhẹ 1,25 cent lên 4,3105 USD/giạ và ghi nhận mức tăng 1,9% trong tuần. Hợp đồng chủ chốt (ZC1!) vẫn duy trì quanh vùng giá cao nhất kể từ đầu tháng 7/2027.

Thị trường chịu tác động từ việc thỏa thuận Mỹ - Trung không nêu rõ cam kết mua ngô, khiến tâm lý nhà đầu tư thận trọng. Tuy nhiên, đà tăng lan tỏa từ giá đậu nành đã giúp giá ngô giữ vững.

Theo giới thương nhân, vụ thu hoạch ngô tại Mỹ đang chậm tiến độ, một phần do năng suất thực tế thấp hơn dự kiến, trong khi nông dân bắt đầu bán ra sau khi giá tăng trong những phiên trước.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá ca cao và đường cùng giảm, dù bật tăng cuối tuần; cao su cũng đi xuống; cà phê duy trì đà tăng trong tháng

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua 31/10, trên sàn London, hợp đồng ca cao kỳ hạn (LCCc2) tăng mạnh 115 bảng (+2,6%) lên 4.489 bảng/tấn, dù tính chung cả tuần vẫn giảm khoảng 2%. Trên sàn New York, hợp đồng ca cao kỳ hạn (CCc1) tăng 1,5% lên 6.151 USD/tấn.

Giới giao dịch cho biết, đà tăng được thúc đẩy bởi thông tin giao dịch ca cao sẽ được đưa trở lại Chỉ số hàng hóa Bloomberg từ năm 2026, tạo lực cầu đầu tư mới cho mặt hàng này.

Bên cạnh yếu tố đầu cơ, thị trường còn chịu tác động từ lo ngại thiếu hụt nguồn cung toàn cầu. Theo Công ty Môi giới StoneX, triển vọng vụ mùa ca cao tại Bờ Biển Ngà, Ghana và Ecuador đang khá bi quan. Trong khi đó, báo cáo của TRS cho thấy, dù vụ giữa có thể khả quan hơn, nhưng vụ chính tại 2 nước sản xuất hàng đầu vẫn dự kiến yếu, khiến rủi ro sản lượng ở mức thấp.

Ngoài ra, tình hình bất ổn chính trị tại Cameroon - quốc gia trồng ca cao lớn thứ 5 thế giới cũng làm dấy lên lo ngại về gián đoạn nguồn cung.

Giá đường thô kỳ hạn (SBc1) đóng cửa tăng 0,15 cent (+1,1%) lên 14,43 cent/pound, sau khi có lúc rơi xuống 14,07 cent/pound - mức thấp nhất kể từ tháng 10/2020. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá vẫn giảm 3,6%. Trên sàn London, giá đường trắng (SF1!) tăng 0,4% lên 415,70 USD/tấn.

Đà giảm trong tuần chủ yếu đến từ dự báo thặng dư toàn cầu tăng, giá năng lượng yếu và thời tiết thuận lợi tại các vùng sản xuất chính, trong khi nông dân Brazil vẫn còn lượng đường lớn chưa bán ra.

Tuy vậy, giới chuyên môn cho rằng, mặt bằng giá hiện tại đã thấp hơn chi phí sản xuất tại Brazil - quốc gia trồng mía hàng đầu thế giới, khiến nhiều nhà máy chuyển hướng sản xuất ethanol để bù lỗ. Báo cáo từ UNICA cũng ghi nhận xu hướng này đang gia tăng.

Theo nhà phân tích đường độc lập Michael McDougall, thị trường đường hiện bị bán quá mức và việc các quỹ đầu cơ ngừng bán ra có thể giúp giá phục hồi trong ngắn hạn.

Trên thị trường cà phê, đóng cửa phiên 31/10, giá Robusta LRCc2 trên sàn London tăng 37 USD (+0,81%) lên 4.622 USD/tấn; giá Arabica KCc2 trên sàn New York tăng 1,3 cent (+0,33%) đạt 392 US cent/lb.

Tổng kết tháng 10/2025, cà phê Robusta giao tháng 11/2025 tăng 324 USD/tấn; còn cà phê Arabica giao tháng 12/2025 tăng 17,2 cent/lb.

Giá cà phê thế giới thời gian gần đây chịu áp lực giảm do kỳ vọng về khả năng đạt được thỏa thuận thương mại giữa Mỹ và Brazil. Bên cạnh đó, thời tiết tại Brazil đã có mưa giúp cải thiện điều kiện canh tác. Tuy nhiên, các nhà giao dịch cho biết đang xuất hiện lo ngại về tình trạng mưa quá mức tại Việt Nam, có thể ảnh hưởng đến mùa vụ cà phê robusta.

Các nhà rang xay của Mỹ đang tiêu thụ mạnh lượng hàng tồn kho, trong bối cảnh đàm phán thương mại Mỹ - Brazil có thể quyết định họ có phải trả giá cao hơn nhiều cho các nguồn cà phê thay thế hay không.

Kết thúc tuần qua, giá cao su tại các sàn châu Á đồng loạt giảm. Trên sàn TOCOM (Nhật Bản), cao su RSS3 giảm nhẹ ở hầu hết các kỳ hạn: Hợp đồng tháng 11/2025 giảm 0,06% về 310,3 JPY/kg; hợp đồng tháng 12/2025 giảm 0,97% về 309 JPY/kg và hợp đồng tháng 1/2026 giảm 0,68% về 309,5 JPY/kg.

Tại sàn Thượng Hải (Trung Quốc), giá cao su tự nhiên đảo chiều giảm sâu so với phiên liền trước: Hợp đồng tháng 11/2025 giảm 1,24% về 14.575 cent/kg; hợp đồng tháng 1/2026 giảm 1,57% vè 15.250 cent/kg và hợp đồng tháng 3/2026 giảm 1,82% về 15.270 cent/kg.

Trên sàn Singapore (SICOM), hợp đồng cao su giao tháng 11/2025 giảm 0,4% về 174 cent/kg, phản ánh xu hướng điều chỉnh nhẹ của toàn thị trường sau giai đoạn tăng kéo dài trong tháng trước.

Theo Công ty CICC Wealth Futures (Trung Quốc), các khu vực sản xuất cao su trong và ngoài nước đang bước vào mùa thu hoạch cao điểm. Thời tiết thuận lợi khiến nguồn cung nguyên liệu thô tăng nhanh, tạo áp lực lên giá cao su tự nhiên tại nhiều thị trường châu Á.

Nguồn cung dồi dào, trong khi nhu cầu tiêu thụ từ các nhà máy chế biến chưa phục hồi hoàn toàn làm gia tăng nguy cơ mất cân đối thị trường trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, khủng hoảng chip của Nexperia - một trong những nhà cung ứng linh kiện lớn cho ngành ô tô - đang khiến nhiều hãng xe toàn cầu phải cắt giảm sản lượng hoặc tìm nguồn thay thế, kéo theo nhu cầu cao su dùng cho sản xuất lốp xe sụt giảm.

(Nguồn: Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Thời báo Tài chính Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục