Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 25/1-1/2: Vàng vượt mốc quan trọng 2.800 USD/ounce, giá dầu tiếp tục giảm

(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 18/1-1/2, thị trường hàng hóa thế giới chứng kiến giá vàng tăng ổn định trên mốc 2.800 USD/ounce, trong khi giá dầu giảm tuần thứ 2 liên tục và giảm trong cả tháng 1.

Năng lượng: Giá dầu giảm tuần thứ 2 liên tiếp, khí LNG giảm về mức thấp nhất 8 tuần, than biến động mạnh

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu giảm trong tuần qua và trong tháng 1 do lo ngại Mỹ áp thuế đối với Canada và Mexico.

Cụ thể, kết thúc phiên thứ Sáu (31/1), giá dầu Brent kỳ hạn tháng 3/2025 giảm 11 US cent về 76,76 USD/thùng, kỳ hạn tháng 2/2025 giảm 31 US cent về 75,58 USD/thùng. Dầu WTI giảm 20 US cent (-0,3%) về 72,53 USD/thùng.

Tính chung cả tuần, giá dầu Brent giảm 2,1% và dầu WTI giảm 2,9% - là tuần giảm thứ 2 liên tiếp. Trong tháng 1/2025, giá 2 loại dầu giảm nhẹ lần lượt gần 1% và 0,34%.

Việc Mỹ tăng thuế đối với Canada và Mexico có ảnh hưởng lớn đến thị trường dầu mỏ bởi đây là 2 nước xuất khẩu dầu thô lớn nhất sang Mỹ. Ông Donald Trump từng nói sẽ đưa ra 1 lộ trình để Canada và Mexico tìm cách dược miễn trừ cụ thể cho một số mặt hàng nhập khẩu nhất định, đồng thời cho biết mức thuế mới sẽ có hiệu lực từ 1/3/2025. Tuy nhiên, sau đó, Nhà Trắng cho biết thời hạn chót là thứ Bảy (1/2/2025).

Dầu thô của Canada được nhiều nhà máy lọc dầu khu vực Trung Tây Mỹ sử dụng và việc nguồn cung giảm xuống sẽ đẩy giá tăng lên. Nhà phân tích Livia Gallarati của Energy Aspects cho biết thuế quan có thể dẫn đến việc cắt giảm đáng kể hoạt động của các nhà máy lọc dầu tại Mỹ.

Thị trường cũng đang chờ đợi cuộc họp OPEC+ dự kiến diễn ra vào hôm nay (3/2/2025). Reuters dẫn một số nguồn tin cho biết, OPEC+ khó có thể thay đổi kế hoạch tăng sản lượng dần dần trong lần họp này, mặc dù ông Trump đã thúc giục OPEC và nhà lãnh đạo thực tế của khối này là Ả Rập Xê-út hạ giá.

Trong khi đó, số lượng giàn khoan dầu của Mỹ, một chỉ báo về sản lượng trong tương lai, đã tăng 7 giàn lên 479 giàn trong tuần qua.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm xuống mức thấp nhất trong 8 tuần vào thứ Năm (31/1) do dự báo thời tiết ôn hòa hơn và nhu cầu sưởi ấm thấp hơn vào tuần tới so với dự kiến trước đó. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, các công ty tiện ích đã rút 321 tỷ feet khối (bcf) khí đốt ra khỏi kho trong tuần kết thúc vào ngày 24/1.

Cụ thể, giá LNG giao tháng 3/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 12,3 UScent (-3,9%) xuống 3,047 USD/mmBtu - mức thấp nhất kể từ ngày 4/12/2024.

Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm từ 103,8 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) vào tháng 12/2024 xuống còn 102,3 bcfd cho đến nay trong tháng 1/2025, chủ yếu là do các giếng dầu và khí đốt đóng băng.

Với thời tiết ôn hòa sắp tới, LSEG dự báo nhu cầu khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ giảm từ 136,8 bcfd trong tuần này xuống còn 124,7 bcfd vào tuần tới.

Trên thị trường than, trong tuần, chỉ số than nhiệt châu Âu tăng lên 110-112 USD/tấn, được hỗ trợ bởi giá khí đốt và điện tăng, cũng như sự sụt giảm trong sản xuất năng lượng tái tạo. Biến động giá than cũng là do sự biến động chung trên thị trường năng lượng.

Cụ thể, giá than nhiệt lượng CV 6.000 của Nam Phi đã phục hồi từ mức thấp nhất trong 10 tháng, nhưng vẫn ở dưới mức 100 USD/tấn, do nhu cầu ở Ấn Độ vẫn bị hạn chế bởi lượng hàng tồn kho cao.

Tại Trung Quốc, giá giao ngay đối với than 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo giảm xuống 94 USD/tấn trong bối cảnh lượng hàng tồn kho tăng và nhu cầu yếu trước Tết Nguyên đán. Lượng than tồn kho tại 6 nhà máy nhiệt điện ven biển lớn nhất nước này đã tăng lên 14,22 triệu tấn (+0,46 triệu tấn), trong khi lượng than tồn kho tại 9 cảng lớn nhất đạt tổng cộng 25,32 triệu tấn.

Than Indonesia 5.900 GAR được điều chỉnh xuống 89 USD/tấn, trong khi than nhiệt lượng 4.200 GAR vẫn ở mức dưới 49 USD/tấn do nhu cầu hạn chế trên thị trường giao ngay trước Tết Nguyên đán và lượng hàng tồn kho đủ ở Ấn Độ và Trung Quốc.

Chỉ số High-CV 6.000 của Úc tăng lên 115-117 USD/tấn. Chỉ số than luyện kim HCC của Úc giảm xuống dưới 190 USD/tấn, do nguồn cung trên thị trường giao ngay tăng và nhu cầu hạn chế. Áp lực cũng xuất phát từ hạn ngạch nhập khẩu của Ấn Độ nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong nước, cũng như sự sẵn có của các lựa chọn thay thế giá cả phải chăng hơn từ các quốc gia khác, bao gồm cả Mỹ. Hơn nữa, người mua đã chậm thực hiện giao dịch vì họ đang chờ đợi sự chắc chắn về chính sách thuế quan của Mỹ.

Kim loại: Vàng vượt 2.800 USD/ounce, nhôm và đồng giảm mạnh

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng đã vượt qua mốc quan trọng 2.800 USD/ounce lần đầu tiên trong lịch sử, được thúc đẩy bởi làn sóng tìm kiếm nơi an toàn trong bối cảnh lời đe dọa tăng thuế quan của Tổng thống Mỹ Donald Trump làm gia tăng lo ngại về tăng trưởng kinh tế toàn cầu và áp lực lạm phát.

Cụ thể, vàng giao ngay kết thúc phiên thứ Sáu (31/1) tăng 0,3% lên 2.801,29 USD/ounce, trước đó trong cùng phiên có lúc giá đạt kỷ lục lịch sử 2.817,23 USD/ounce. Ngược lại, vàng kỳ hạn tháng 4/2025 giảm 0,4% xuống 2.835 USD/ounce, giao dịch cao hơn giá vàng giao ngay. Tính chung cả tuần, giá vàng tăng nhẹ gần 1%.

Vàng thỏi, một tài sản được ưa chuộng trong thời kỳ kinh tế và địa chính trị bất ổn, đã tăng hơn 5% trong tháng 1/2025, là tháng tăng mạnh nhất kể từ tháng 3/2024 và ghi nhận hiệu suất hàng tháng tốt nhất kể từ tháng 3/2024. Kim loại quý này năm 2024 đã vượt qua nhiều mức cao kỷ lục.

Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,8% về 31,42 USD/ounce sau khi đạt mức cao nhất trong hơn 1 tháng vào phiên trước đó; bạch kim tăng 1% lên 975,80 USD/ounce; palladium tăng 2,2% lên 1.011 USD. Tính chung trong tháng 1, cả 3 kim loại quý này đều tăng giá.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng và nhôm đều giảm trong phiên 31/1 do lo ngại thuế quan của Mỹ áp lên Canada và Mexico có thể làm gián đoạn gần 1.600 tỷ USD thương mại toàn cầu.

Cụ thể, kết thúc phiên này, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London (LME) giảm 0,8% về 9.056,5 USD/tấn và nhôm giảm 1% về 2.599,5 USD/tấn; tính cả tuần giá giảm 2,5% - mức giảm tồi tệ nhất trong 2,5 tháng, nhưng trong tháng 1 là tháng tăng đầu tiên kể từ tháng 9/2024, với mức tăng khoảng 3%.

Về các kim loại cơ bản khác, giá kẽm giảm 1,7% xuống 2.746,50 USD/tấn sau khi chạm mức 2.738 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 11/9/2024; chì giảm 0,7% xuống 1.952,50 USD/tấn; thiếc giảm 0,3% xuống 30.020 USD/tấn và niken giảm 1% xuống 15.215 USD/tấn. Tính chung trong tháng 1, giá thiếc và kẽm tăng khoảng 6%, trong khi nickel giảm nhẹ.

Các thị trường chính tại Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, đóng cửa nghỉ Tết Nguyên đán cho đến ngày 5/2/2025.

Nông sản: Đồng loạt giảm giá

Trên sàn CBOT, giá mặt hàng nông sản đồng loạt giảm trong phiên thứ Sáu (31/1) do nhà đầu tư thận trọng trước quyết định thuế quan 25% của Tổng thống Mỹ Donald Trump đối với Mexico và Canada, dự kiến có hiệu lực từ ngày 1/2.

Cụ thể, hợp đồng lúa mì đỏ mềm giao tháng 3/2025 giảm 7 cent xuống 5,5905 USD/giạ, trong khi lúa mì đỏ cứng KC giảm 9 cent xuống 5,7925 USD/giạ. Lúa mì Xuân tại Minneapolis (MWEH25) giảm 4,75 cent về 6,1505USD/giạ. Dù vậy, tính cả tuần, giá lúa mì vẫn tăng 2,85%.

Tương tự, hợp đồng ngô tháng 3/2025 giảm 8,25 cent xuống 4,82 USD/giạ và cả tuần giảm 0,92%. Hợp đồng đậu nành cùng kỳ hạn giảm 2 cent xuống 10,42 USD/giạ; bột đậu nành (giảm 3,6 USD xuống 301,1 USD/tấn ngắn; dầu đậu nành tăng 1,13 cent lên 46,11 cent/pound, nhờ kỳ vọng nhu cầu thay thế dầu hạt cải Canada trong trường hợp thuế có hiệu lực.

Giới phân tích cảnh báo việc áp thuế có thể khiến Mexico và Canada, 2 trong số các thị trường nhập khẩu nông sản lớn nhất của Mỹ thực hiện các biện pháp đáp trả. Ngoài ra, theo Commodity Weather Group, điều kiện khô hạn tại vùng Đồng bằng Tây Nam Mỹ cũng là yếu tố đáng chú ý khi cây lúa mì đỏ cứng đang bước vào giai đoạn phát triển sau kỳ ngủ Đông.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường và dầu cọ tăng, ca cao giảm mạnh, cao su và cà phê diễn biến trái chiều

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô giảm 0,12 cent (-0,6%) xuống 19,35 cent/pound, dù vẫn ghi nhận mức tăng 1,7% trong tuần. Trước đó, giá đã phục hồi từ mức thấp nhất 5 tháng là 17,57 cent/pound. Đường trắng giảm 0,6% xuống 519,5 USD/tấn.

Theo các nhà phân tích, thị trường đường vẫn chịu áp lực giảm do triển vọng vụ mùa 2025-2026 khá tích cực. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, tình trạng khan hiếm nguồn cung đã phần nào hỗ trợ giá.

Tại Ấn Độ, một cơ quan thương mại dự báo sản lượng đường niên vụ 2024-2025 sẽ giảm 14,7% so với cùng kỳ năm trước, xuống còn 27,27 triệu tấn, do nhiều nhà máy chuyển hướng sản xuất ethanol.

Phiên giao dịch ngày thứ Sáu chứng kiến giá cà phê Arabica tăng 4,45 cent (+1,2%) lên 3,7785 USD/pound. Trước đó, giá có thời điểm vọt lên mức cao chưa từng có 3,8105 USD/pound. Tính chung cả tuần, giá Arabica tăng 8,7% - nối tiếp đà tăng 5,8% của tuần trước nữa.

Trong khi đó, cà phê Robusta giảm nhẹ 0,3% xuống 5.718 USD/tấn, dù trong phiên đã thiết lập kỷ lục mới tại 5.861 USD/tấn. Xuất khẩu cà phê Robusta Sumatra của Indonesia trong tháng 12/2024 tăng mạnh 345% so với cùng kỳ năm trước, đạt 20.947,1 tấn.

Thị trường được hỗ trợ bởi lo ngại sản lượng cà phê tại Brazil sẽ giảm trong niên vụ 2025-2026 do ảnh hưởng của thời tiết khô hạn năm ngoái và tâm lý găm hàng của nông dân. Theo Commerzbank, sản lượng thấp và giá tăng có thể khiến nông dân hạn chế bán ra từ vụ thu hoạch sắp tới. Tuy nhiên, một số chuyên gia nhận định triển vọng sản lượng của Brazil có thể không quá tiêu cực, do lượng mưa dồi dào sau đợt hạn hán đã giúp cải thiện tình trạng cây trồng.

Giá ca cao New York giảm mạnh 220 USD (-2%) xuống 10.987 USD/tấn trong phiên 31/1 và cả tuần giảm 5%. Giá ca cao London cũng giảm 1,4% xuống 8.694 bảng/tấn, đánh dấu mức giảm 5% trong tuần.

Theo các chuyên gia, đà tăng mạnh của ca cao trong vài năm qua đang tác động tiêu cực đến nhu cầu sô cô la, khi người dùng có xu hướng thắt chặt chi tiêu.

Giá cao su tại Nhật Bản tăng và có tháng tăng, do thời tiết bất lợi tại nước sản xuất hàng đầu Thái Lan, làm dấy lên mối lo ngại về nguồn cung.

Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 7/2025 trên sàn Osaka (OSE) tăng 6,3 JPY (+1,62%) lên 394,4 JPY (2,55 USD)/kg. Tính chung cả tháng, giá tăng 5,31%. Ngược lại, giá cao su kỳ hạn tháng 2/2025 trên sàn Singapore giảm 0,7% xuống 196 US cent/kg.

Theo các nhà phân tích, lượng mưa mới đây tại miền nam Thái Lan đã cản trở sản xuất trước mùa Đông. Cây cao su trải qua mùa rét với sản lượng thấp từ tháng 2 đến tháng 5, trước thời kỳ thu hoạch cao điểm kéo dài đến tháng 9.

Giá dầu cọ tại Malaysia tăng và có tuần tăng thứ 2 liên tiếp, do giá dầu đậu tương tại Mỹ tăng mạnh và đồng ringgit suy yếu, làm lu mờ sự không chắc chắn về doanh số xuất khẩu của Indonesia và mối đe dọa thuế quan của Mỹ.

Cụ thể, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 4/2025 trên thị trường Bursa Malaysia tăng 11 ringgit (+0,26%) lên 4.290 ringgit (964,04 USD)/tấn. Tính chung cả tuần, giá dầu cọ tăng 1,76% sau khi tăng 0,62% trong tuần trước nữa.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục