
Năng lượng: Dầu giảm giá tuần thứ 2 liên tiếp, khí LNG cũng giảm
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu giảm tuần thứ hai liên tiếp vào thứ Sáu (30/5), chịu sức ép từ việc tăng sản lượng khác của OPEC+.
Cụ thể, dầu thô Brent giảm 21 Uscent (-0,33%) xuống 63,94 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) giảm 22 Uscent (-0,36%) xuống 60,72 USD/thùng. Tính chung cả tuần, 2 loại dầu đều giảm khoảng 1,3%.
Tuy vậy, các nhà phân tích cho biết, nhu cầu dầu toàn cầu tăng trưởng hàng tháng ở mức khoảng 400.000 thùng/ngày tính đến ngày 28/5/2025, thấp hơn 250.000 thùng/ngày so với dự báo trước đó.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm trong tuần qua do dự báo nhu cầu giảm so với dự kiến trước đó, bù đắp cho dự báo nhu cầu tăng trong tuần này.
Cụ thể, giá LNG tương lai giao tháng 7/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 3,5 Uscent (-1%) về mức 3,522 USD/mmBTU.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết, các công ty năng lượng đã bổ sung 101 tỷ feet khối khí đốt vào kho lưu trữ trong tuần kết thúc vào ngày 23/5/2025.
Công ty Tài chính LSEG thông tin, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm xuống còn 105 tỷ feet khối mỗi ngày cho đến nay trong tháng 5, giảm so với mức kỷ lục hàng tháng là 105,8 bcfd vào tháng 4.
LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng từ 95,4 bcfd trong tuần này lên 96,4 bcfd vào tuần tới. Dự báo cho tuần này thấp hơn triển vọng của LSEG vào thứ Tư, trong khi dự báo cho tuần tới cao hơn.
Trên thị trường than, trong tuần qua, giá than nhiệt châu Âu đã tăng lên 96-97 USD/tấn, được hỗ trợ bởi giá khí đốt tăng. Giá than nhiệt CV cao 6.000 của Nam Phi dao động trong khoảng 87-90 USD/tấn trong tuần, theo xu hướng tăng giá của châu Âu.
Tại Trung Quốc, giá giao ngay đối với than 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo đã giảm xuống 86 USD/tấn. Xu hướng giảm tiếp diễn do nhu cầu nhiệt điện yếu và tình trạng cung vượt cầu than trên thị trường trong nước. Tập đoàn Shenhua, nhà cung cấp than lớn nhất Trung Quốc, vào tối Chủ Nhật đã hạ giá mua từ các nhà sản xuất bên thứ ba xuống 0,14-0,97 USD/tấn, dẫn đến sự sụt giảm trên thị trường. Một số nhà sản xuất đã làm theo Shenhua, giảm giá 0,7-1,4 USD/tấn để thúc đẩy doanh số.
Các yêu cầu về lô hàng giao ngay tại các cảng phía Bắc Trung Quốc tăng nhẹ. Điều này dẫn đến lượng hàng tồn kho tại 9 cảng lớn nhất giảm xuống còn 31,95 triệu tấn (-1,15 triệu tấn), trong khi lượng than dự trữ tại 6 TP ven biển lớn nhất đạt tổng cộng 14,42 triệu tấn (-0,02 triệu tấn).
Giá than Indonesia 5.900 GAR giảm xuống 79 USD/tấn, trong khi giá than 4.200 GAR giảm về 46 USD/tấn. Nhu cầu của Trung Quốc vẫn ở mức thấp, trong khi mùa mưa sắp tới dự báo sẽ làm giảm lượng tiêu thụ điện nhiệt.
Than CV cao 6.000 của Úc vẫn ở mức 102 USD/tấn, được hỗ trợ bởi các lô hàng đến châu Âu. Chỉ số than luyện kim HCC của Úc trong xu hướng đi ngang ở mức 191 USD/tấn, bị hạn chế bởi hoạt động giao dịch hạn chế, do khoảng cách lớn giữa giá chào mua và giá chào bán trên thị trường Ấn Độ. Các yếu tố khác khiến nhu cầu giảm là mùa gió mùa đang đến gần, cũng như chính sách hạn ngạch nhập khẩu than cốc của Ấn Độ chưa rõ ràng. Hạn ngạch nhập khẩu than cốc của Ấn Độ hết hạn vào ngày 30/6/2025.
Kim loại: Giá vàng và đồng cùng giảm, quặng sắt và thép trái chiều
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm vào thứ Sáu (30/5) khi USD tăng nhẹ và thị trường tiếp tục theo dõi diễn biến thuế quan mới nhất, trong khi báo cáo lạm phát của Mỹ thấp hơn dự kiến đã duy trì hy vọng về việc cắt giảm lãi suất.
Cụ thể, đóng cửa, giá vàng giao ngay giảm 0,7% xuống 3.293,59 USD/ounce và cả tuần giảm 1,9%. Hợp đồng vàng kỳ hạn tháng 6/2025 giảm 0,9% xuống 3.315,40 USD/ounce .
Chỉ số USD tăng 0,1% khiến vàng đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Tòa án phúc thẩm Liên bang hôm thứ Năm đã tạm thời khôi phục mức thuế quan toàn diện nhất của Tổng thống Donald Trump, một ngày sau khi Tòa án thương mại Mỹ phán quyết ông Trump đã vượt quá thẩm quyền trong việc áp đặt các loại thuế và ra phán quyết dừng ngay lập tức các kế hoạch tăng thuế.
Chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) của Mỹ tháng 4/2025 đã tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, so với dự báo là 2,2%.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng giảm do áp lực từ USD mạnh lên.
Cụ thể, giá đồng kỳ hạn ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) CMCU3 giảm 0,6% xuống 9.510 USD/tấn.
Giá đồng được hỗ trợ bởi lượng hàng tồn kho giảm trong các kho đã đăng ký với LME, giảm 45% kể từ giữa tháng 2/2025 xuống còn 149.875 tấn, mức thấp nhất trong gần một năm. Lượng đồng tồn kho trong các kho do Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giám sát đã tăng 7,2% trong tuần qua.
Ở nhóm kim loại đen, trong tuần cuối tháng 5, giá thép thanh trên sàn Thượng Hải tiếp tục giảm nhẹ. Hợp đồng tháng 10 giảm 10 CNY về 2.961 CNY (407 USD)/tấn; hợp đồng tháng 6 giảm 13 CNY về 2.948 CNY (405 USD)/tấn.
Ngược lại, giá quặng sắt trên các sàn có biến động trái chiều. Trên sàn Đại Liên, hợp đồng tháng 6 tăng 0,87% lên 750,5 CNY (103,3 USD)/tấn, trong khi hợp đồng tháng 9giảm 0,43% về 702 CNY (97,65 USD)/tấn và giảm 2,84% cả tuần. Sàn Singapore ghi nhận giá hợp đồng tháng 6 nhích nhẹ lên 96,89 USD/tấn, nhưng cả tuần vẫn giảm 1,91%.
Việc Úc tăng xuất khẩu quặng sang Trung Quốc lên 17,4 triệu tấn/tuần (tăng 10,4%) đã hỗ trợ giá quặng. Tuy nhiên, sản lượng kim loại nóng tại Trung Quốc giảm tuần thứ ba liên tiếp, chỉ còn khoảng 2,42 triệu tấn, tạo áp lực lên giá.
Nhu cầu nguyên liệu tại Trung Quốc tiếp tục suy yếu do sản xuất thép co hẹp 2 tháng liên tiếp, cộng thêm căng thẳng thương mại toàn cầu. Một số thuế nhập khẩu Mỹ tái áp dụng cũng khiến thị trường thêm bất ổn.
Ngoài ra, than luyện kim và than cốc trên sàn Đại Liên giảm lần lượt 5,28% và 2,13%. Thép cuộn cán nóng trên sàn Thượng Hải giảm 0,81%; thép cây giảm 0,34%; trong khi thép dây và thép không gỉ biến động nhẹ theo chiều tăng.
Nông sản: Đồng loạt giảm giá
Giá lúa mì kỳ hạn trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT) biến động nhẹ trong phiên 30/5, chịu ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết thuận lợi tại vùng đồng bằng Mỹ và dự báo sản lượng vụ mùa thấp hơn từ Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA).
Cụ thể, lúa mì đỏ mềm mùa Đông giao tháng 7 (WN25) đứng ở mức 5,34 USD/giạ; lúa mì cứng đỏ mùa Đông KC tháng 7 (KWN25) tăng 1,5 cent lên 5,3325 USD/giạ; lúa mì Xuân giao cùng kỳ hạn tại Minneapolis (MWEN25) tăng 10 cent lên 6,2505 USD/giạ. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, lúa mì đỏ mềm giảm 1,6%. USDA công bố doanh số xuất khẩu tuần phù hợp với dự báo, ghi nhận âm 128.800 tấn, đúng với kỳ vọng thị trường.
Thời tiết mưa tại vùng đồng bằng miền Trung và Nam nước Mỹ giúp tăng độ ẩm đất, trong khi khu vực Trung Tây và đồng bằng miền Bắc thời tiết khô ráo thuận lợi cho gieo trồng lúa mì Xuân. USD biến động nhẹ, chịu ảnh hưởng bởi các diễn biến liên quan đến chính sách thuế quan của Mỹ.
Giá ngô kỳ hạn trên sàn CBOT giảm do điều kiện thời tiết thuận lợi cùng nguồn cung tăng từ Nam Mỹ. Cụ thể, hợp đồng ngô giao tháng 7 (CN25) giảm 3 cent về 4,44 USD/giạ và giảm 3,32% trong tuần.
USDA báo cáo doanh số xuất khẩu ngô tuần vừa qua đạt 916.700 tấn, nằm trong khoảng kỳ vọng 750.000-1.400.000 tấn của thị trường. Thời tiết khô tại vùng Trung Tây gần đây thuận lợi cho gieo trồng ngô, đậu tương, trong khi mưa dự kiến trong các tuần tới sẽ cải thiện độ ẩm đất giúp hạt giống nảy mầm hiệu quả.
USDA cũng cho biết, các nhà xuất khẩu Mỹ đã bán 210.560 tấn ngô đến các thị trường chưa xác định, trong đó 145.560 tấn giao vào niên vụ 2024-2025 và 65.000 tấn vào niên vụ 2025-2026. Vụ thu hoạch ngô safrinha tại Brazil và Argentina bắt đầu thúc đẩy nguồn cung giá thấp cạnh tranh với hàng Mỹ.
Giá đậu tương CBOT giảm do yếu tố thời tiết thuận lợi cùng với sự không chắc chắn về chính sách nhiên liệu sinh học tại Mỹ. Cụ thể, hợp đồng đậu tương tháng 7 (SN25) giảm 10 cent về 10,4175 USD/giạ và cả tuần giảm 1,74%; dầu đậu tương tháng 7 (BON25) giảm 1,5 cent về 46,89 cent/pound, trong khi bột đậu tương (SMN25) giảm 1 cent về 296,4 USD/tấn.
Thời tiết khô ráo gần đây hỗ trợ việc gieo trồng đậu tương, dự báo mưa trong thời gian tới sẽ cải thiện độ ẩm đất. Doanh số xuất khẩu đậu tương tuần vừa qua chỉ đạt 146.000 tấn, thấp hơn nhiều so với kỳ vọng thị trường.
Các chuyên gia nhận định thị trường đang theo sát thông tin Nhà Trắng cân nhắc giải pháp giảm tồn đọng các yêu cầu miễn trừ nhiên liệu sinh học từ các nhà máy lọc dầu nhỏ.
Nguyên liệu công nghiệp: Ca cao bật tăng; cao su, đường và cà phê đều giảm
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua (30/5), giá đường thô trên sàn ICE ghi nhận phiên tăng thứ hai liên tiếp, dù vẫn duy trì ở mức thấp nhất trong gần 4 năm qua. Cụ thể, hợp đồng đường thô (SB1!) tăng 0,05 cent (+0,3%) lên 17,05 cent/lb. Mặc dù vậy, giá đường thô đã giảm tổng cộng 2,3% trong tháng 5, với mức thấp nhất gần đây đạt 16,81 cent/lb vào thứ Năm (29/5). Giá đường trắng SF1! cũng tăng 0,5%, đạt 476,10 USD/tấn.
Các chuyên gia cho rằng, đà giảm trước đó đã kích thích hoạt động mua vào trên thị trường vật chất, đặc biệt khi có thông tin về nhu cầu tăng từ Trung Quốc. Tuy nhiên, triển vọng mùa gió mùa đến sớm tại các quốc gia sản xuất lớn ở châu Á cùng với sản lượng đường ở khu vực Trung Nam Brazil cao hơn dự kiến trong nửa đầu tháng 5 có thể kìm hãm đà hồi phục của giá.
Bên cạnh đó, Công ty Tư vấn Archer Consulting (Brazil) đã hạ dự báo sản lượng mía nghiền tại khu vực Trung Nam xuống còn 581 triệu tấn, giảm so với 596 triệu tấn do năng suất nông nghiệp thấp hơn kỳ vọng.
Giá cà phê Robusta (RC2!) tiếp tục giảm 67 USD (-1,5%) về 4.463 USD/tấn, sau khi chạm đáy 6,5 tháng ở mức 4.390 USD/tấn. Tháng 5 chứng kiến giá Robusta giảm tới 17% do áp lực từ vụ thu hoạch mới tại các nước sản xuất lớn.
Các chuyên gia cho biết, vụ thu hoạch cà phê Robusta năm 2025 tại Brazil - nước sản xuất Robusta lớn thứ hai thế giới sau Việt Nam, đang diễn ra thuận lợi và có thể vượt qua dự báo ban đầu, tạo áp lực giảm giá.
Trong khi đó, giá cà phê Arabica (KC1!) giảm 1,7% về 3,4245 USD/pound, nối dài mức giảm 17% trong tháng 5. Sàn ICE dự kiến sẽ chuyển đổi hợp đồng tương lai cà phê Arabica sang định giá USD/tấn thay vì xu/pound nhằm phù hợp hơn với thị trường quốc tế.
Giá ca cao (C1!) trên sàn Londonbật tăng 340 pound (+5,5%) lên 6.541 bảng/tấn, giúp giá duy trì mức tăng nhẹ 1% trong tháng 5. Theo nhận định, các hoạt động bán tháo theo chiều dài hạn do đầu cơ đã phần nào lắng xuống sau khi giá giảm khoảng 22% từ đỉnh 7.862 bảng/tấn hồi giữa tháng 5 xuống vùng đáy 6.168 bảng/tấn vào cuối tuần qua.
Tại thị trường New York, hợp đồng ca cao (CC1!) cũng tăng mạnh 7,5% lên 9.791 USD/tấn, tương ứng mức tăng 7% trong tháng 5.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm vào thứ Sáu (30/5) khi hoạt động thu hoạch theo mùa ở các nước sản xuất cao su làm giảm bớt lo ngại về nguồn cung, trong khi sự bất ổn vẫn bao trùm xung quanh thuế quan của Mỹ và tác động đến thương mại toàn cầu.
Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 11 trên Sàn giao dịch Osaka (OSE) giảm 19,6 JPY (-6,23%) về 295 JPY (2,05 USD)/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 9 của sàn SHFE giảm 435 CNY (-3,14%) về 13.405 CNY (1.864,68 USD)/tấn. Hợp đồng cao su butadien kỳ hạn tháng 7 - hoạt động mạnh nhất trên sàn SHFE, giảm 200 CNY (-1,76%) về 11.145 CNY (1.550,31 USD)/tấn.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
![]() |
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |