Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 14-21/10: Dầu tiếp tục tăng giá, vàng áp sát mức 2.000 USD/ounce

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 14-21/10, thị trường hàng hóa thế giới ghi nhận giá vàng và dầu tiếp tục tăng, riêng vàng áp sát mức 2.000 USD/ounce, trong khi giá nhiều mặt hàng khác như ngô, đậu tương, bông, đồng, quặng sắt, thép… đi xuống.
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 14-21/10: Dầu tiếp tục tăng giá, vàng áp sát mức 2.000 USD/ounce

Năng lượng: Giá dầu tiếp tục tăng, khí LNG giảm

Trên thị trường dầu mỏ, dù giảm trong phiên cuối tuần qua 20/10, nhưng giá dầu ghi vẫn nhận tuần tăng thứ hai do khủng hoảng Israel - Palestine leo thang.

Cụ thể, chốt phiên 20/10, dầu thô Brent giảm 22 US cent (-0,2%) về 92,16 USD/thùng; dầu thô Tây Texas (WTI) kỳ hạn tháng 11/2023 đáo hạn trong phiên giảm 0,62 USD (-0,7%) về 88,75 USD/thùng; dầu WTI kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 0,29 USD về 88,08 USD/thùng. Tính chung cả tuần, giá dầu tăng hơn 1% và là tuần tăng thứ hai liên tiếp.

Trung Đông vẫn là một trọng tâm lớn của thị trường vì những lo sợ về xung đột trên toàn khu vực có thể dẫn tới gián đoạn nguồn cung dầu mỏ.

Cũng hỗ trợ giá là các dự báo thị trường thắt chặt trong quý cuối năm sau khi các nhà sản xuất hàng đầu như Ả Rập Xê-út và Nga tiếp tục cắt giảm nguồn cung tới hết năm nay.

UBS dự kiến giá dầu Brent giao dịch trong khoảng 90 USD-100 USD/thùng trong những phiên tới.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ xuống mức thấp nhất 2 tuần do kho dự trữ lớn hơn dự kiến, sản lượng kỷ lục và dự báo thời tiết ôn hòa và nhu cầu sưởi ấm ít hơn dự kiến cho đến đầu tháng 12/2023.

Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, các công ty điện lực đã bổ sung 97 tỷ feet khối (bcf) khí đốt vào kho dự trữ trong tuần kết thúc vào ngày 13/10.

Giá khí đốt kỳ hạn giao tháng 11/2023 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 9,9 xu (-3,2%) về 2,957 USD/mmBtu, mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 3/10.

Với thời tiết ôn hòa hơn sắp tới, LSEG dự báo nhu cầu khí đốt của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ giảm từ mức 97,6 bcfd trong tuần này xuống mức 96,9 bcfd vào tuần tới.

Dòng khí tới 7 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã tăng lên mức 13,5 bcfd từ đầu tháng 10 đến nay với sự trở lại của nhà máy xuất khẩu Cove Point của Berkshire Hathaway Energy ở Maryland, tăng từ mức 12,6 bcfd trong tháng 9.

Kim loại: Vàng áp sát mức 2.000 USD/ounce; đồng, quặng sắt, thép đều giảm

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tiếp tục tăng và ghi nhận tuần thứ 2 tăng giá liên tiếp do lo sợ xung đột leo thang ở Trung Đông.

Cụ thể, vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.979,39 USD/ounce sau khi lên mức cao nhất kể từ tháng 5/2023 trong phiên 20/10. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12/2023 tăng 0,7% lên 1.994,4 USD/ounce.

Giá vàng đã tăng 2,5% trong tuần qua và tăng gần 160 USD kể từ khi bắt đầu xung đột.

Tại thị trường giao ngay, các đại lý vàng ở Ấn Độ buộc phải đưa ra mức thiết khấu cao hơn do giá trong nước tăng vọt làm nhu cầu chậm lại trước một lễ hội quan trọng.

Ở nhóm kim loại cơ bản, giá đồng giảm bởi lo lắng về lãi suất tăng, tăng trưởng toàn cầu chậm chạp và thiếu kích thích kinh tế bổ sung tại Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới.

Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,6% xuống 7.945 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá ổn định sau 2 tuần giảm liên tiếp.

Lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng vọt 5% lần đầu tiên kể từ năm 2007 đã tác động lên các thị trường tài chính rộng lớn do các nhà đầu tư lo sợ lãi suất sẽ phải duy trì ở mức cao để hạn chế lạm phát.

Triển vọng ngắn hạn của đồng là giảm giá do thiếu kích thích bổ sung từ Trung Quốc và tình trạng không chắc chắn về suy thoái toàn cầu.

Giá đồng vẫn được hỗ trợ kỹ thuật ở mức 7.800-7.600 USD/tấn với một số đơn vị đầu cơ bán ra trong vài ngày qua.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt giảm bởi lo ngại về thị trường bất động sản suy yếu của Trung Quốc và sản lượng thép yếu hơn dự kiến.

Cụ thể, quặng sắt giao tháng 1/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc đóng cửa giảm 27,5 CNY (-3,2%) xuống 839 CNY (114,64 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính cả tuần, giá quặng sắt vẫn tăng nhẹ 0,1% - đánh dấu tuần tăng đầu tiên sau 3 tuần giảm liên tiếp.

Tại Singapore, quặng sắt giao tháng 11/2023 giảm 3,8% xuống 112,5 USD/tấn và giảm 1,5% trong tuần qua.

Thị trường bất động sản Trung Quốc đang có dấu hiệu phục hồi nhẹ trong ngắn hạn sau một loạt biện pháp kích thích của chính phủ nước này nhằm vực dậy hoạt động trong lĩnh vực chiếm 1/4 sản lượng kinh tế.

Giá thép tại Thượng Hải giảm: Thép thanh giảm 0,4%; thép cuộn cán nóng giảm 0,5%; dây thép cuộn giảm 0,1% và thép không gỉ giảm 1,6%.

Nông sản: Đồng loạt giảm giá

Giá ngô trên sàn giao dịch Chicago giảm sau khi lên mức cao nhất kể từ tháng 8/2023, trong khi đậu tương thoái lui từ mức cao nhất một tháng.

Nhà đầu tư chốt lời sau khi các thị trường tăng trước đó do lo ngại hạn hán tại Brazil làm gián đoạn việc vận chuyển ngũ cốc trên sông và việc trồng đậu tương đang chậm lại. Việc mua theo yếu tố kỹ thuật và hy vọng nhu cầu xuất khẩu bổ sung của Mỹ cũng hỗ trợ giá đậu tương.

Cụ thể, hợp đồng ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 9-1/2 US cent xuống 4,95-1/2 USD/bushel. Trước đó, ngô đạt mức giá 5,09-1/2 USD, cao nhất kể từ ngày 2/8/2023.

Đậu tương chạm mức 13,18-1/2 USD/bushel - cao nhất kể từ ngày 21/9/2023, trước khi đóng cửa giảm 13-1/4 US cent xuống 13,02-1/4 USD/bushel.

Lúa mì CBOT đóng cửa giảm 8 US cent xuống 5,86 USD/bushel sau khi chạm mức cao nhất trong 5 tuần tại mức giá 6,04-1/2 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường ổm định, cà phê bật tăng, cao su và bông cùng giảm mạnh

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 đóng cửa giảm 0,44 US cent (-1,6%) về 26,85 US cent/lb. Hợp đồng này giảm 0,7% trong tuần.

Đường trắng kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 11,3 USD (-1,5%) về 726,5 USD/tấn, giá ổn định so với tuần trước.

Các nhà xuất khẩu báo cáo việc chậm trễ xuất khẩu cà phê từ Brazil do khan hiếm xe tải và container. Trong khi đó, các cảng bị quá tải do khối lượng đậu tương, ngô và đường cao kỷ lục. Colombia, nhà cung cấp arabica sạch hàng đầu thế giới sẽ kết thúc năm nay với sản lượng 11,6-12 triệu bao (loại 60kg/bao), kết thúc 3 năm sản lượng giảm.

Theo đó, cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2024 đóng cửa tăng 77 USD (+3,2%) lên 2.479 USD/tấn và tăng 9% trong tuần qua. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 tăng 1,3 US cent (+0,8%) lên 1,6525 USD/lb, giá đã đạt cao nhất một tháng tại mức 1,6680 USD/lb. Hợp đồng này tăng 6,7% trong tuần qua sau khi tăng 6% trong tuần trước nữa.

Giá cao su Nhật Bản ghi nhận mức giảm lớn nhất trong 7 tháng do các nhà đầu tư chốt lời sau khi giá tăng gần đây. Cụ thể, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 6,4 JPY (-2,4%) xuống 259,8 JPY (1,73 USD)/kg, tính chung cả tuần giá tăng 1,1% - tuần tăng thứ hai liên tiếp.

Tại Thượng Hải, cao su giao tháng 1/2023 giảm 275 CNY (-1,9%) về 14.440 CNY (1.973,24 USD).

Giá bông có tuần giảm mạnh khi giảm 4,25% về 1.816,61 USD/tấn. Bán hàng bông tại Mỹ vẫn ở mức thấp, cùng với lo ngại nhu cầu giảm tại Trung Quốc khiến cho giá giảm sâu.

Dữ liệu từ báo cáo bán hàng xuất khẩu bông của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho thấy, bán hàng bông Mỹ trong tuần kết thúc ngày 12/10 đã đạt 71.300 kiện, giảm 36% so với mức trung bình 4 tuần. Trong khi đó, xuất khẩu cũng giảm 22% so với dữ liệu trung bình 4 tuần trước, khi chỉ có 109.900 kiện bông. Thị trường dệt may năm 2023 kém sôi động, khiến nhu cầu về bông có phần suy yếu, từ đó gây áp lực lên giá.

Hơn nữa, giới quan sát cho biết, Trung Quốc đang chuyển dần việc nhập khẩu bông từ Mỹ sang 2 thị trường Brazil và Úc do những khúc mắc trong thương mại Mỹ - Trung. Điều này ảnh hưởng trực tiếp lên khả năng xuất khẩu bông tại Mỹ khi Trung Quốc vẫn đang là bạn hàng lớn nhất.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục