Thị trường gần phục hồi, xuất khẩu chớp thời cơ

0:00 / 0:00
0:00
Các thị trường gần như ASEAN và Trung Quốc hồi phục là cơ hội cho các ngành hàng xuất khẩu trong nước nắm bắt thời cơ chốt đơn hàng, tăng tốc xuất khẩu, bù cho sự sụt giảm tại thị trường Mỹ, EU.
Gạo đang có cơ hội xuất khẩu lớn khi thị trường mở rộng và giá tăng. Ảnh: Dũng Minh. Gạo đang có cơ hội xuất khẩu lớn khi thị trường mở rộng và giá tăng. Ảnh: Dũng Minh.

Đầu tư vào thị trường gần

Khi đơn hàng xuất khẩu sang các thị trường chủ lực là Mỹ, EU… giảm sâu do tác động từ lạm phát và suy giảm kinh tế, thì các thị trường gần trong khối ASEAN lại đang có dấu hiệu hồi phục. Đây là cơ hội cho các ngành hàng xuất khẩu trong nước nắm bắt thời cơ chốt đơn hàng.

Cùng với đó, các thị trường khu vực Bắc Âu, Đông Âu, Mỹ La-tinh tuy nhỏ, nhưng đang có tốc độ tăng trưởng cao, với nhiều dư địa khai thác đang được Thương vụ Việt Nam kết nối với doanh nghiệp để đàm phán xuất khẩu.

Năm 2022, xuất khẩu cả nước đạt gần 372 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu sang khu vực châu Á đạt 177 tỷ USD, chiếm gần 48% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong 2 tháng năm 2023, dù trên bình diện chung, xuất khẩu sang các thị trường đều giảm, nhưng xuất sang khu vực này vẫn có mức giảm thấp hơn.

Cụ thể, xuất khẩu sang ASEAN giảm 8%, Hàn Quốc giảm 5,7%, Nhật Bản giảm 5,9%, trong khi xuất sang Mỹ giảm 21%...

Cuối tuần qua, Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Ngọc Minh Lạng Sơn đã xuất khẩu 18 tấn sầu riêng sang thị trường Trung Quốc. Đây là lô hàng sầu riêng đầu tiên được xuất đi từ vùng trồng được cấp mã số tại Cần Thơ. Với Nghị định thư xuất khẩu sầu riêng được ký kết vào tháng 7/2022, sầu riêng được dự báo sớm đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD sang thị trường này.

Thị trường Trung Quốc, với chính sách mở cửa trở lại từ đầu năm 2023, đã tác động tích cực đến xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc trong 2 tháng đầu năm đạt 8,2 tỷ USD, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Ngành gỗ là điển hình khi duy trì tăng trưởng dương sang các thị trường gần. 2 tháng năm 2023, trị giá xuất khẩu của ngành đạt 1,68 tỷ USD, giảm mạnh 31,8% (tương ứng giảm 784 triệu USD) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 785 triệu USD, giảm 47,2%, thì tín hiệu tại các thị trường gần sáng sủa hơn. Đơn cử, xuất sang Nhật Bản với 270 triệu USD, tăng 11%; Trung Quốc với 248 triệu USD, tăng 25,4% so với cùng kỳ năm trước.

Đóng góp 3,3-3,5 tỷ USD/năm vào kim ngạch xuất khẩu cả nước mỗi năm, ngành gạo có nhiều cơ hội tăng xuất khẩu sang các thị trường gần hơn cả, do ASEAN và Trung Quốc là “địa chỉ” xuất khẩu chiếm hơn 70% trị giá của ngành.

Tin vui là nhu cầu của thị trường và giá gạo xuất khẩu sang Trung Quốc đã tăng mạnh ngay khi thị trường này mở cửa trở lại. Trong 2 tháng đầu năm, lượng gạo xuất khẩu đạt 152.640 tấn, trị giá 90,01 triệu USD, tăng 86,4% về lượng và tăng 120,5% kim ngạch. Giá trung bình 589,7 USD/tấn, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm 2022.

Xuất khẩu rau quả sang thị trường Trung Quốc trong 2 tháng đầu năm cũng đạt 320,5 triệu USD, tăng 25,3% so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 56,7% tổng trị giá xuất khẩu rau quả.

Các chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh lạm phát toàn cầu, các thị trường gần như ASEAN, Trung Quốc sẽ là điểm đến tiềm năng nhất của nhiều loại nông sản Việt Nam nhờ nhu cầu bùng nổ, vị trí địa lý gần, chi phí logistics và rủi ro thấp hơn các thị trường khác.

Kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc trong năm 2022 đạt hơn 57,7 tỷ USD, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước đó và tăng thấp nhất trong số các thị trường chủ lực. Vì vậy, việc Trung Quốc mở cửa thị trường trở lại mang đến kỳ vọng lớn cho các doanh nghiệp, ngành hàng, nhất là rau quả, thủy sản, xơ sợi, xi măng, cao su, thép, dệt may, gạo…

Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO (Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) đánh giá: “Sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu là điều khó tránh trong bối cảnh chung hiện nay, nhưng để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu, các doanh nghiệp buộc phải nắm bắt tốt tín hiệu thị trường và tận dụng được cơ hội từ các FTA đang thực thi, với các chính sách thương mại thuận lợi từ trên 60 thị trường”.

Xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường có FTA mới chiếm khoảng 2% tổng kịp ngạch nhập khẩu của các thị trường này. Trong đó, chỉ 1/3 lượng hàng hóa tận dụng được ưu đãi thuế quan nhờ thỏa mãn xuất xứ hàng hóa, từ đó đặt ra bài toán đầu tư của các doanh nghiệp để khai thác triệt để hơn các lợi thế có được từ FTA để tăng xuất khẩu và tăng khả năng hưởng ưu đãi.

Ngành hàng lớn vẫn lo

Sự sụt giảm của nhu cầu thế giới thực sự là thách thức lớn cho xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2023. Các ngành hàng xuất khẩu vài chục tỷ USD mới qua 2 tháng đầu năm đã bị “hao hụt” tới cả tỷ USD, nhẹ hơn thì vài trăm triệu USD, mỗi ngành giảm một chút đã kéo xuất khẩu cả nước giảm theo.

Máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 868 triệu USD; hàng dệt may giảm 1,11 tỷ USD; giày dép giảm 525 triệu USD, gỗ và sản phẩm gỗ giảm 784 triệu USD…

Rõ ràng, với tình hình thị trường năm 2023 còn nhiều khó khăn, bất định, tác động xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu, mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu ở mức 6% so với năm 2022, tương đương 393-394 tỷ USD, đang gặp nhiều thách thức.

Cụ thể, áp lực bên ngoài đối với sản xuất công nghiệp và hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong năm 2023 đến từ nhiều kênh, như thương mại quốc tế giảm sút do nhiều nền kinh tế là đối tác lớn của Việt Nam tăng trưởng chậm lại, làm tổng cầu giảm, tác động đến xuất khẩu; đồng tiền Việt Nam đang chịu áp lực giảm giá, khiến nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất tăng cao hơn.

Tình trạng phổ biến là số lượng đơn hàng sụt giảm, đơn giá thấp, trong khi doanh nghiệp đối diện sức ép gia tăng các yêu cầu về phát triển xanh, bền vững từ đối tác nhập khẩu.

Dự liệu khó khăn còn kéo dài ít nhất đến giữa năm 2023, nhiều doanh nghiệp đã chủ động tiết giảm chi phí sản xuất, mở rộng thêm thị trường, đặc biệt với khu vực còn ổn định, ít lạm phát, nhằm tận dụng tối đa các đơn hàng, để đảm bảo duy trì sản xuất và giữ chân người lao động.

Thế Hoàng
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục