Thị trường chứng khoán Việt Nam, 10 năm nhìn lại (phần 2)

Trong liên tục 10 năm hành nghề cho đến nay, có 2 sự kiện có liên quan đến thăng trầm của TTCK có liên quan đến số phận của mỗi nhà đầu tư vẫn còn làm tôi nhớ mãi.


Phần 2: Những dấu mốc khó quên
Thị trường chứng khoán Việt Nam, 10 năm nhìn lại (phần 2)

>> Phần 1: Những kỷ niệm khó quên thủa ban đầu

Đó là gần 2 năm sau khi khai trương Trung tâm GDCK TP. HCM (HOSTC), sự cạnh tranh giữa các CTCK đã trở nên gay gắt, việc tìm kiếm một hợp đồng tư vấn, trong đó có tư vấn niêm yết là hết sức khó khăn. Tìm kiếm mãi, cuối cùng chật vật và khó khăn lắm, BSC mới vượt qua CTCK Ngân hàng Á Châu (ACBS) để giành được hợp đồng tư vấn tài chính và tư vấn niêm yết cho CTCP Hợp tác kinh tế và xuất nhập khẩu SAVIMEX (SAV).

Trong quá trình tư vấn, nhờ có nhiều ý kiến tư vấn giúp doanh nghiệp tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp và thuyết phục thành công cán bộ nhân viên SAV về lợi ích của việc niêm yết, trước khi niêm yết, Hội đồng quản trị SAV có nhã ý nhượng lại cho BSC 10 tỷ đồng cổ phiếu SAV với giá 22.000 đồng/cổ phiếu, trong lúc giá SAV ở thị trường OTC là 23.500-24.000 đồng/cổ phiếu. Điều cần khẳng định ở đây là với cơ chế cổ phần hóa ở thời điểm đó, việc chuyển nhượng này hoàn toàn đúng luật.

Với cách nghĩ đơn giản rằng, chỉ cần hạ bút ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu SAV trên thị trường OTC thời điểm đó, với khoản tự doanh đầu tiên này, đã mang về cho BSC khoảng 1,5 tỷ đồng, một khoản tiền không nhỏ vào thời điểm đó, nên chúng tôi đã quyết định ngay. Ba tháng sau, ngày 09/05/2002, khi chính thức niêm yết, giá SAV gia tăng khá nhanh, có thời điểm lên tới 27.500 đồng/cổ phiếu. Và như vậy, đã có lúc danh mục đầu tư của BSC đã có gần trên 7 tỷ đồng lợi nhuận (sổ sách), chưa kể cổ tức.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, thị trường xoay chiều quá đột ngột và nhanh đến mức chúng tôi không kịp bán ra. Đã có lúc, giá cổ phiếu chỉ còn 17.500 đồng/cổ phiếu. Nhưng với sự ủng hộ của Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc BIDV lúc đó, chúng tôi đã thực hiện chiến lược mua và nắm giữ (buy and hold). Sau hơn một năm chờ đợi, thị trường đã hồi phục, được sự nhất trí của lãnh đạo BIDV, chúng tôi đã bán toàn bộ số lượng cổ phiếu SAV, mang về cho BSC khoản lợi nhuận gần 4 tỷ đồng.

Công bằng mà xét, cho đến nửa đầu năm 2005, BSC vẫn là một tên tuổi lớn, ít ra là trong lĩnh vực công nghệ và tư vấn vì hoạt động tư vấn của BSC gắn liền với hàng loạt hợp đồng tư vấn cổ phần hóa, định giá và đấu giá lớn như Savimex, Vifon, Vinamilk, Dầu Tường An, Dầu Tân Bình, Dầu thủ Đức, Pinaco, Công ty Dich vụ Kỹ thuật dầu khí (PVS), Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong (NTP), FALCON, FPT, Vietracimex… Thế nhưng, chừng đó là vẫn chưa đủ so với những lợi thế mà BSC đang sở hữu!

Sẽ thực sự thiếu sót nếu đề cập đến các biến cố thăng trầm của thị trường trong 10 năm qua mà không nhắc đến và nhớ lại sự kiện lịch sử ngày 25/03/2008. Sau một thời gian tăng trưởng với tốc độ chóng, lần đầu tiên trong lịch sử hoạt động, VN-Index đã đạt mức kỷ lục 1.158,90 điểm, nhưng cũng từ đây, thị trường liên tục ở vào trạng thái rơi tự do một cách liên tục và không thể kiểm soát khi các thông tin xấu về các biến số kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Cần lưu ý rằng, khủng hoảng tài chính tại Mỹ và sau đó lan rộng sang toàn cầu chỉ bắt đầu bùng nỗ vào tháng 10/2008.

Thị trường chứng khoán Việt Nam, 10 năm nhìn lại (phần 2) ảnh 1
T.S Hồ Công Hưởng

Trong bối cảnh ấy, mặc dù đã có nhiều ý kiến trấn an dư luận của Chính phủ, các Bộ, dấu hiệu tháo chạy của nhà đầu tư trong và ngoài nước, ra khỏi TTCK Việt Nam ngày càng rõ nét hơn bao giờ hết.

Đúng lúc ấy, dù có nhiều ý kiến trái chiều, SSC đã ra Quyết định số 467/UBCK-PTTT ngày 25/03/2008 để điều chỉnh biên độ giao động giá từ ± 5% xuống còn ± 1%. Thực tế chứng minh rằng, đây là một quyết định cực kỳ sáng suốt và đúng lúc của SSC trong việc ngăn chặn hiệu quả đà lao dốc, khả năng đổ vỡ của thị trường; đồng thời, tạo một khoảng lặng cần thiết, một phòng tuyến an toàn để bình ổn tâm lý của nhà đầu tư sau khi hàng chục nghìn tỷ đồng đã bị bốc hơi chỉ trong vài tháng. 

Cho dù đã trải qua những thời kỳ thăng trầm, 10 năm qua, TTCK Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ về quy mô cũng như chất lượng. Về chất lượng, công nghệ giao dịch trên cả hai Sở giao dịch và các CTCK đã có bước phát triển đáng kể. Từ chỗ sử dụng công nghệ giao dịch bán tự động với hình thức đại diện giao dịch tại sàn, hiện nay cả 2 Sở đều thực hiện giao dịch điện tử hóa hoàn toàn dưới hình thức kết nối và giao dịch trực tuyến. Về quy mô, từ vài công ty niêm yết trong những ngày đầu tiên, đến nay, TTCK Việt Nam đã có gần 576 công ty niêm yết, 4 chứng chỉ quỹ, 612 trái phiếu, 105 CTCK, 46 công ty quản lý quỹ, 8 ngân hàng lưu ký, gần 900.000 tài khoản đầu tư; trong đó có trên 14.000 nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, đến nay, TTCK đã trở thành một thực thể không thể thiếu trong nền kinh tế cũng như trong đời sống của người dân Việt Nam.

 

Nhiều tồn tại ảnh hướng đến sự phát triển của thị trường

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích có được, trong 10 năm qua, nhiều vấn đề mới đã và đang phát sinh, có nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến tính minh bạch và sự ổn định của thị trường.

Thứ nhất, trong bối cảnh tăng nóng của thị trường và trong bối cảnh chất lượng kiểm soát báo cáo tài chính của nhiều công ty kiểm toán không được bảo đảm, việc nhiều công ty niêm yết tranh thủ phát hành đã làm cho chất lượng cổ phiếu niêm yết có chiều hướng giảm sút.

Thứ hai, điều hết sức nghịch lý là trong khi nguồn cung chứng khoán có tốc độ phát triển mạnh, đôi khi đẩy thị trường đến tình trạng bội thực, số lượng các CTCK được cấp phép hoạt động cũng gia tăng nhanh quá mức cần thiết thì số lượng nhà đầu tư, đối tượng cần phát triển thì lại tăng quá chậm, không tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và quy mô dân số của Việt Nam.

Cụ thể, trong số gần 900.000 tài khoản hiện có đến nay, nếu loại trừ số tài khoản được mở để tránh né các quy định, theo tôi, con số tài khoản thực sự giao dịch ước tính chỉ khoảng 300.000 - 500.000. So với mức dân số xấp xỉ 85 triệu của nước ta, cho dù có muốn thừa nhận hay không, tỷ lệ chưa tới 1% nhà đầu tư chứng khoán trong tổng dân số là mặt hạn chế nhất trong 10 năm hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam.

Thứ ba, tình trạng làm giá, thao túng giá với các công nghệ “bơm, hút, thả, xả đẩy”, với các kỹ thuật phao tin; các kỹ thuật xuất bản các báo cáo phân tích khẳng định một cách chắc chắn VN-Index sẽ lùi về mốc X hoặc tăng đến mốc Y được suy diễn hết sức chủ quan trong những thời điểm nhạy cảm, hoặc dưa ra các phân tích dự báo về chính sách tiền tệ thay cho cả một ngành,  được thực hiện bởi các “đội lái tàu” chuyên nghiệp đang làm xói mòn nghiêm trọng lòng tin của nhà đầu tư.

Còn gì nghịch lý hơn trong bối cảnh toàn thị trường giảm điểm, các cổ phiếu có các chỉ số cơ bản tốt thì xuống giá hoặc đứng yên trong khi các cổ phiếu của các công ty có quy mô nhỏ, EPS không cao, thậm chí có những công ty làm ăn thua lỗ lại không những tăng mạnh mà tăng gấp nhiều lần?

Thêm nữa, chắc chắn nhiều nhà đầu tư chịu khó bám sàn đã từng chứng kiến một hiện tượng phổ biến là, trong khi không có thông tin gì đặc biệt, nhiều cổ phiếu phiên hôm trước chất đầy lệnh bán (mua), không còn lệnh mua (bán) cuối phiên thì lạ thay, phiên hôm sau lệnh mua (bán) lại chất đống và không còn một lệnh bán (mua) cuối phiên. Vì vậy, có một điều chắc chắn là, trong khi các chuyên viên phân tích chứng khoán, các giảng viên đại học đang căng mắt nhìn trên màn hình để tìm ra các mẫu hình biến động giá, hình dạng của các chỉ số thì ở trong một góc khuất nào đấy, các “đội lái tàu” đang mặc sức múa may, đùa cợt!

Thứ tư, tình trạng tùy tiện trong công bố thông tin, công bố thông tin chậm, thiếu chính xác, không trung thực đang gây bức xúc cho cộng đồng đầu tư và ngày càng đặt ra nhiều thách thức đối với cơ quan quản lý.

Vụ việc một cổ đông lớn của CTCP Vật tư vận tải xi măng (VTV) đăng ký chào mua công khai một số lượng lớn cổ phiếu nhưng lại âm thầm bán sạch toàn bộ số cổ phiếu. Đến nay, chưa có vụ đổ bể nào liên quan đến chiều ngược lại liên quan đến giao dịch của cổ đông nội bộ được phanh phui, nghĩa là công bố bán nhưng lại mua thông qua các tài khoản của người có liên quan. Thế nhưng, từ những sự việc trên, nhà đầu tư có quyền suy nghĩ, phải chăng đây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm công bố thông tin giao dịch của người bên trong các công ty niêm yết hiện nay?

Thứ năm, cũng giống như các thông tin chi tiết của các khách hàng tại các ngân hàng, thông tin về tài khoản của nhà đầu tư (kể cả các CTCK có chức năng tự doanh), trong có có thông tin về danh mục đầu tư, là những thông tin mật, chỉ được phép tiết lộ khi có yêu cầu của các cơ quan thực thi pháp luật. Thế nhưng, một bảng thống kê tập hợp danh mục đầu tư và các khoản tự doanh hàng ngày của 40 CTCK trong tháng 2, 3 và đầu tháng 4 lại được chễm chệ nằm trên diễn đàn của một câu lạc bộ đầu tư đều đặn hàng ngày vào lúc 3 giờ chiều, dưới dạng tập tin excel.

Chưa hết, tại sàn giao dịch của một CTCK, sau giờ giao dịch hoặc đầu giờ mỗi buổi chiều, một bảng thống kê giao dịch từ các tài khoản tự doanh của các CTCK cũng được phân phối hàng ngày cho các nhà đầu tư. Thực tế này là một dấu hỏi lớn của dư luận đặt ra cho các cơ quan quản lý có liên quan về tính minh bạch của thị trường, quy trình bảo mật các thông tin nhạy cảm của các cơ quan quản lý!

Nếu không giải quyết rốt ráo các vấn đề này, nếu không có biện pháp quản lý để có đủ các các tiêu chuẩn “LET” - viết tắt của ba thuật ngữ: Liquidity (Tính lưu động), Efficiency (Hiệu quả), Transparency (Minh bạch) - của một thị trường phát triển, nguy cơ HOSE và HNX sẽ trở thành “HOSINO” và “HASINO” là nguy cơ có thực.

 

7 đề xuất để thị trường phát triển

Để các chủ thể tham gia thị trường đều có kỷ niệm đẹp hơn về sự phát triển bền vững của thị trường trong lần kỷ niệm 15, 20 năm, theo tôi, cần giải quyết 7 vấn đề chính.

Một là, thị trường cần một cơ quan quản lý độc lập, trực thuộc Chính phủ, để có đầy đủ các thẩm quyền, điều kiện và khả năng ban hành các văn bản pháp quy nhằm xử lý nhanh, nhạy các vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn giống như mô hình trước đây thay vì mô hình một Ủy ban (cấp Nhà nước) lại trực thuộc Bộ (Bộ Tài chính), phải qua quá nhiều tầng, nấc như hiện nay.

Đương nhiên, nâng quyền hạn của SSC phải gắn liền với trách nhiệm trong việc quản lý. Không nên quản lý theo kiểu “cái gì không quản được thì cấm”. Việc nghiêm cấm các CTCK mở đại lý nhận lệnh trước đây (vi phạm Luật Doanh nghiệp) hay cấm sử dụng môi giới tự do như thời gian gần đây (không khả thi) là các ví dụ cụ thể.

Hai là, với trên 100 CTCK đang hoạt động, nhằm đáp ứng được các yêu cầu thực tế của các thành viên, đã đến lúc phải tổ chức lại các Sở giao dịch chứng khoán theo mô hình của các tổ chức tự quản (self-regulation) với các thành viên là các CTCK theo thông lệ của nhiều nước. Trong mô hình này, các tổ chức tự quản không chỉ được phép xác định các quy tắc, các quy định điều chỉnh, các hành vi giao dịch trên TTCK, xác định tư cách, tiêu chuẩn thành viên của Sở giao dịch mà còn xác định hàng loạt các biện pháp kỹ thuật giám sát thị trường, các chế tài bắt buộc phải tuân thủ các nguyên tắc đã đề ra nhằm bảo đảm một thị trường công bằng và trật tự.

Ba là, với các diễn biến ngày càng tinh vi trong công nghệ làm giá, thao túng thị trường, hơn lúc nào hết, TTCK Việt Nam cần một hệ thống công nghệ giao dịch hiện đại, đủ sức theo dõi, phát hiện và xử lý các hành vi thao túng, lũng đoạn thị trường theo kiểu “một tay che cả bầu trời”, gây phẫn nộ và bức xúc dư luận trong thời gian gần đây.

Bốn là, cần sửa đổi Luật Chứng khoán và bổ sung các chế tài mới đầy đủ hơn, xử lý nghiêm minh hơn, có tính răn đe hơn các hành vi phi phạm nghĩa vụ công bố thông tin, giao dịch nội gián, thao túng, lũng đoạn thị trường.

Năm là, cần hiện đại hóa các phương tiện công bố thông tin và đa dạng hóa phương pháp công bố thông tin trên các Sở giao dịch chứng khoán. Song song với việc hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin qua internet để cung cấp tất cả những thông tin về thị trường và các thông tin có liên quan đến tổ chức niêm yết. Cần khẩn trương xây dựng mạng lưới truyền thông (broadcasting network), mạng tin nhắn RSS để phục vụ cho việc cung cấp thông tin trực tiếp từ tổ chức niêm yết đến các CTCK thành viên và hệ thống mạng điện thoại trả lời tự động (audio automatic response system) các thông tin do nhà đầu tư yêu cầu.

Sáu là, để kiểm soát rủi ro, cần nâng cao tiêu chuẩn niêm yết trên cả hai Sở giao dịch chứng khoán. Theo đó, đối với HOSE, môt công ty muốn niêm yết phải có lịch sử hoạt động 5 năm, số vốn thực góp phải đạt 200 tỷ đồng, chỉ số ROE bình quân 3 năm gần nhất tối thiểu 15%, số cổ đông tối thiểu 1.000 cổ đông. Tương tự, tiêu chuẩn niêm yết tại HNX lần lượt là 3 năm, 100 tỷ đồng, 10% và 500 cổ đông. Các cổ phiếu đã niêm yết tại HOSE nhưng không đạt tiêu chuẩn niêm yết mới sẽ chuyển sang niêm yết tại HNX, các cổ phiếu không đạt tiêu chuẩn tại HNX sẽ chuyển sang giao dịch tại thị trường UPCOM. 

Bảy là, trong một thị trường được xem là minh bạch, các thông tin để xác định các điều kiện cung cầu tiềm tàng của thị trường phải đầy đủ và sẵn có. Những thông tin này sẵn có đối với tất cả thành viên tham gia thị trường ở cùng một thời điểm, nghĩa là tất cả các thành viên tham gia giao dịch đều có cơ hội tiếp cận thị trường như nhau. Vì vậy, việc không cung cấp thông tin về giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài (trong phiên giao dịch) tại HOSE hoặc việc thu phí cung cấp thông tin cho gói tin đầy đủ đối với các CTCK thành viên (đã đóng phí thành viên, phí giao dịch) là các bất hợp lý cần phải chấm dứt!

T.S Hồ Công Hưởng, Giám đốc CTCK Hoàng Gia, nguyên Giám đốc CTCK BSC
T.S Hồ Công Hưởng, Giám đốc CTCK Hoàng Gia, nguyên Giám đốc CTCK BSC

Tin cùng chuyên mục