Ðà tăng trưởng đang trong xu thế giảm
Tại báo cáo cập nhật kinh tế Việt Nam giai đoạn 2019-2020, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhận định, tăng trưởng GDP 2019 sẽ dao động quanh ngưỡng 7,2%, lạm phát bình quân khoảng 2,78%, tăng trưởng xuất khẩu ước đạt 8,13%, cán cân thương mại vào khoảng 4,2 tỷ USD.
Ðánh giá cao kết quả năm 2019, song cơ quan này đưa ra góc nhìn tương đối thận trọng đối với tình hình vĩ mô năm 2020.
Theo đó, CIEM dự báo, Tăng trưởng GDP 2020 ước đạt 6,72%, lạm phát bình quân khoảng 3,17%, tăng trưởng xuất khẩu ước đạt 7,64%, cán cân thương mại vào khoảng 2,3 tỷ USD.
Không chỉ CIEM, nhiều tổ chức quốc tế cũng đánh giá thận trọng về tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2019-2020.
Ðơn cử, báo cáo mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định, tăng trưởng của Việt Nam trong năm nay là 6,6% và giảm còn 6,5% trong năm tới do tăng trưởng xuất khẩu và sản xuất nông nghiệp chậm lại.
Tương tự, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đưa ra mức tăng trưởng khoảng 6,5% cho cả giai đoạn do các yếu tố kém thuận lợi của kinh tế toàn cầu.
Ở góc nhìn tích cực hơn, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho rằng, Việt Nam là một trong số ít quốc gia trong khu vực châu Á có thể đạt tốc độ tăng trưởng 6,8% trong năm 2019 và 6,7% vào năm 2020 - là các mức tăng trưởng cao so với nhiều nước trong khu vực.
Lý giải xu thế giảm tăng trưởng nói chung, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM) cho rằng, kinh tế Việt Nam đang đứng trước những khó khăn, thách thức khi cả động lực, tiềm năng và chất lượng tăng trưởng đều đang có vấn đề, trong khi sự chuẩn bị trong nước dường như chưa tương xứng với tiềm năng của các hiệp định thương mại tự do (FTA) mới.
“Ðộng lực cho tăng trưởng kinh tế ở 3 quý vừa qua chủ yếu dựa vào xuất khẩu, sản xuất công nghiệp, khai khoáng và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhưng tới đây, xuất khẩu sẽ không còn dễ dàng.
Tăng trưởng xuất khẩu vào các thị trường truyền thống như EU, Trung Quốc giảm so với năm trước, chỉ xuất khẩu vào Hoa Kỳ là tăng.
Tuy nhiên, đây cũng là rủi ro lớn khi Hoa Kỳ đang gia tăng trừng phạt, cũng như kiểm soát với những quốc gia xuất khẩu nhiều vào thị trường này, bao gồm cả Việt Nam.
Trong khi đó, xuất khẩu vào các thị trường CPTPP chưa nhanh như kỳ vọng, khả năng tận dụng ưu đãi từ các FTA chưa cao và xuất khẩu của khu vực FDI đã có sự giảm tốc”, ông Dương phân tích.
Ðồng quan điểm, TS. Nguyễn Ðình Cung, Thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, Nguyên Viện trưởng CIEM nhìn nhận, kinh tế Việt Nam vẫn có khả năng tăng trưởng nhờ xuất khẩu nhưng rất bấp bênh và tiềm ẩn nhiều nguy cơ trong bối cảnh kinh tế toàn cầu diễn biến phức tạp như hiện nay.
Ðể tăng sức đề kháng, doanh nghiệp cần nâng chất quản trị
Ðánh giá các yếu tố tác động tới thị trường từ góc nhìn của nhà đầu tư, ông Dominic Scriven, Chủ tịch Hội đồng quản trị Quỹ đầu tư Dragon Capital, Phó chủ tịch Hội đồng quản trị Viện Thành viên Hội đồng quản trị Việt Nam (VIOD) nhìn nhận, đang có nhiều yếu tố bất định, khó lường trên thị trường quốc tế.
“Các cường quốc kinh tế đều gia tăng mạnh nợ công, chẳng hạn Nhật Bản, Mỹ có nợ công chiếm tới 70% GDP. Không chỉ nợ lớn, lãi suất cũng trong tình trạng âm. Lịch sử thế giới chưa hề ở thời kỳ lãi suất âm, nhưng hiện có tới 1/3 lượng trái phiếu chính phủ giao dịch trên thế giới ở trong tình trạng này”, ông Dominic Scriven thông tin.
Bên cạnh đó, chiến tranh thương mại đang ngày càng diễn biến phức tạp, không chỉ dừng ở thương chiến Mỹ - Trung, mà còn lan sang Nhật - Hàn, EU - Mỹ, hay vấn đề Brexit tại Anh… cho thấy khả năng khó tránh khỏi một cuộc suy thoái trên quy mô toàn cầu trong thời gian tới. Ðiều này đặt ra bài toán khó giải cho mọi nền kinh tế, nhất là các nền kinh tế mới nổi.
Có cùng mối quan ngại về diễn biến bất định trên quy mô toàn cầu có thể dẫn tới xu hướng suy giảm trong dài hạn, TS. Vũ Bằng, nguyên Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, vấn đề lớn nhất hiện nay của nền kinh tế thế giới là nợ công và căng thẳng thương mại gia tăng.
Theo ông Bằng, nợ công hiện đã đạt 320% GDP toàn cầu - mức rất cao so với trước khi khủng hoảng năm 2009. Ðây là những yếu tố có thể tác động mạnh đến nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế mới nổi vốn có độ mở rất lớn.
Ðánh giá sự tác động tới Việt Nam, ông Dominic Scriven cho rằng, Việt Nam ít bị ảnh hưởng bởi những yếu tố trên khi vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng liên tục trong 10 năm qua với một nền tảng vĩ mô ổn định, môi trường kinh doanh - đầu tư có nhiều cải thiện.
Thống kê quy mô vốn và mức lương của 50 công ty niêm yết lớn nhất trên thị trường chứng khoán sau 8 năm đã tăng lên gấp đôi cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân cũng cải thiện tích cực…
Tuy nhiên, cũng theo chuyên gia này, thực tế đang cho thấy tăng trưởng có dấu hiệu suy giảm khi chỉ số Quản lý thu mua (PMI) đang hạ nhiệt, tốc độ tăng trưởng thu nhập của ngân sách đang hạ dần… và đặc biệt là sự lệch pha trong xuất khẩu.
Liên quan đến nợ công, TS. Vũ Bằng lưu ý, nợ nước ngoài của Việt Nam trong những năm gần đây đang gia tăng nhanh chóng.
Trong khi đó, dòng tiền đầu tư vào bất động sản đang phải dựa rất nhiều vào vốn vay của ngân hàng, nhưng khả năng đáp ứng của thị trường vốn trong dài hạn là rất thấp.
“Mặc dù lãi suất huy động đang giảm dần, nhưng lãi suất cho vay vẫn khó giảm bởi sự bất cân xứng giữa nguồn vốn dài hạn và ngắn hạn. Ðây là yếu tố có thể tác động nhanh chóng đến sự an toàn của của doanh nghiệp”, ông Bằng phân tích.
Nhận định về triển vọng giai đoạn 2019 - 2020, ông Dominic Scriven cho rằng, tuy nền kinh tế hiện tương đối khoẻ mạnh, nhưng cần nhìn rõ các thách thức phải đối mặt để đánh giá đúng các ảnh hưởng dài hạn.
“Các doanh nghiệp Việt Nam cần thận trọng, nhận diện rõ các thách thức để có sự chuẩn bị vững vàng thông qua tăng năng lực quản trị nội bộ, từ đó tăng khả năng ứng phó với các cú sốc từ bên ngoài.
Trong bối cảnh này, quản trị doanh nghiệp hiệu quả là bài toán lớn đặt ra đối với tất cả lãnh đạo doanh nghiệp, đòi hỏi phải có nhiều đổi mới để giúp doanh nghiệp sẵn sàng thích ứng, vượt qua khó khăn, thách thức của môi trường kinh doanh”, ông Dominic Scriven nhấn mạnh.
TS. Vũ Bằng cũng cho rằng, yêu cầu cấp bách đặt ra hiện nay đối với các doanh nghiệp là tăng cường quản trị công ty. Ðây là yếu tố vô cùng quan trọng để doanh nghiệp có thể tăng khả năng quản trị rủi ro, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động.
“Thực tế cho thấy, những doanh nghiệp nào làm tốt vấn đề quản trị công ty thì đều đạt kết quả kinh doanh tích cực, từ đó giá trị công ty sẽ được đánh giá cao hơn, khả năng tiếp cận vốn cũng tốt hơn, đặc biệt là phát huy được lợi ích của tất cả các bên liên quan, qua đó giúp doanh nghiệp phát triển lành mạnh và bền vững hơn”, ông Bằng nhấn mạnh.