Theo nhận định của TS. Trần Tiến Cường, chủ trì nhóm thực hiện Báo cáo, quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước như vậy là chậm so với số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa và thấp hơn nhiều so với cùng thời điểm của các năm 2014-2015. Cùng với đó, chất lượng cổ phần hóa cũng chưa có dấu hiệu cải thiện.
“Việc bán cổ phần nhà nước ra công chúng tiếp tục gặp khó khăn. Nguyên nhân của sự chậm trễ về tiến độ và giảm sút về chất lượng là do cơ chế, chính sách về cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước hầu như chưa có thay đổi, một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn nhưng chậm được bổ sung, sửa đổi nên không thu hút được nhà đầu tư”, ông Cường cho biết.
Việc ban hành cơ chế, chính sách có tác động trọng yếu đến tiến độ cổ phần hóa và thoái vốn giai đoạn 2016-2020, nhưng đến cuối năm 2016, đầu năm 2017 một số chính sách quan trọng mới được ban hành như Quyết định 58/2016/QĐ-TTg về phân loại DNNN và Quyết định 707/2017/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án tái cơ cấu DNNN.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng, việc thu hồi vốn từ hoạt động cổ phần hóa tiếp tục gặp khó khăn, thoái vốn nhà nước chưa đạt yêu cầu theo tiến độ. Các doanh nghiệp có kết quả sản xuất-kinh doanh tốt thì thoái vốn thành công, còn lại là các doanh nghiệp khó bán hoặc không thể bán được.
“Nhiều trường hợp thoái vốn không theo nguyên tắc thị trường, mà dưới nhiều hình thức như cấn trừ công nợ, chuyển nợ thành vốn góp, bàn giao nguyên trạng... Vì vậy, DNNN và doanh nghiệp do Nhà nước giữ cổ phần chi phối, vẫn hiện diện ở các ngành, lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ, làm cho DNNN chưa đạt mục tiêu tập trung tối đa vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu”, Báo cáo nêu rõ.
Cũng theo Báo cáo, tỷ lệ vốn nhà nước được cổ phần hóa và thoái ra ngoài xã hội còn thấp, làm hạn chế đáng kể đến kết quả thực hiện các mục tiêu sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN đã đề ra. Theo đánh giá của CIEM, đây là thách thức lớn cho việc thực hiện cổ phần hóa theo kế hoạch tái cơ cấu DNNN từ nay đến năm 2020.
Không chỉ cổ phần hóa và thoái vốn chậm, số lượng DNNN thua lỗ bị cho phá sản rất ít. Theo CIEM, giai đoạn 2011-2015, cả nước chỉ phá sản được 8 DNNN thua lỗ. Từ năm 2016 đến nay chỉ phá sản được 1 doanh nghiệp.
Ông Phạm Đức Trung, Trưởng Ban Cải cách và phát triển doanh nghiệp (CIEM) cho rằng, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng nguyên nhân chủ yếu do chủ nợ và người lao động đều không muốn phá sản. Bên cạnh đó, một thực trạng đáng lo ngại đang diễn ra ngày càng phổ biến, đó là sự thất thoát tài sản tại các dự án, doanh nghiệp yếu kém nhưng chưa xác định trách nhiệm thuộc về ai.
“Bộ máy quản lý, cơ quan chủ quản kiêm nhiệm nhiều vị trí khác nhau và đặc biệt là có nhiều hình thức hỗ trợ để tránh phá sản DNNN, nên rút cục vẫn không quy rõ được trách nhiệm cụ thể cho ai và cách xử lý thế nào”, ông Trung nói.
Ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM cho biết: “Không ai biết dòng vốn nhà nước trong doanh nghiệp đang chảy như thế nào? Muốn biết phải tập hợp các báo cáo, nhưng mất rất nhiều thời gian và cũng không có con số chính xác. Đây là nhược điểm lớn nhất của quản trị, thiếu mô hình giám sát nên không cảnh báo được rủi ro, yếu kém và chỉ phát hiện ra khi hậu quả đã xảy ra”.
Đánh giá chung về thực trạng tái cơ cấu DNNN trong giai đoạn gần đây, ông Cung cho rằng, thoạt nhìn thì triển khai đầu việc khá nhiều, song thực tế chưa đạt mục tiêu đề ra là góp phần hiệu quả vào tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế.
“Chúng ta cần tăng trưởng bền vững dựa trên việc tái cơ cấu DNNN, chứ không thể cứ mãi hút dầu, khai thác than để tăng trưởng. Vì vậy, nếu không thực hiện được mục tiêu tái cơ cấu DNNN trong giai đoạn này cũng có nghĩa là ta phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong việc đổi mới mô hình tăng trưởng trong thời gian tới”, ông Cung nói.
Một vấn đề đáng chú ý cũng được Báo cáo của CIEM nêu lên là trong quá trình tái cơ cấu DNNN, mô hình chuyển DNNN về Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) vẫn còn nhiều vướng mắc.
Khảo sát của CIEM tại nhiều doanh nghiệp cho thấy, cơ quan quản lý có những văn bản dưới luật cho phép doanh nghiệp giữ lại, không chuyển về SCIC.
Hơn nữa, gánh nặng nợ quốc gia thông qua vay của DNNN chưa có dấu hiệu cải thiện, nguyên nhân lớn nhất là do quan hệ thân hữu, lợi ích. Lợi ích của việc quản lý tài sản nhà nước quá lớn nên nhiều cá nhân không muốn thay đổi, thậm chí trì hoãn tái cơ cấu DNNN.