Lê Văn Tâm không còn xa lạ với những biến động thất thường của thị trường thương mại cà phê toàn cầu, vốn tưởng xa xôi, nhưng lại ảnh hưởng lớn đến sinh kế của những hộ nông dân trồng cà phê nhỏ lẻ như ông.
Bắt đầu trồng cà phê trên một mảnh đất bên ngoài thành phố Buôn Ma Thuột vào năm 1995, trong một thời gian dài, ông Tâm tập trung vào số lượng chứ không phải chất lượng. Ông sử dụng nhiều cách để tăng năng suất, còn lại để giá cả thị trường quyết định.
Tuy nhiên, vào năm 2019, ông đã hợp tác với nhà sáng lập Lê Đình Tú của Aeroco Coffee, đơn vị chuyên xuất khẩu cà phê hữu cơ sang châu Âu và Mỹ, để áp dụng các phương pháp canh tác bền vững hơn trên khu vườn của mình. Thay vì trồng độc canh, vườn cà phê của ông như một khu rừng mà ở đó, cây cà phê mọc cạnh cây me, với mục đích bổ sung nitơ cho đất và hỗ trợ cây tiêu phát triển. Lớp cỏ phía dưới cũng được giữ lại để làm ẩm cho đất. Bằng cách trồng xen kẽ nhiều loại cây, ông Tâm có thể ngăn chặn sự bùng phát sâu bệnh đồng thời tăng thêm thu nhập từ cây tiêu.
“Sản lượng cà phê không tăng nhưng giá trị sản phẩm thì tăng rõ rệt”, ông nói.
Vào những năm 1990, trong cơn bão của giá cà phê toàn cầu, ông Tâm cũng như hàng nghìn nông dân Việt Nam bắt tay vào trồng cà phê, chủ yếu là cà phê Robusta, với tổng diện tích lên tới hơn 1 triệu ha. Đến năm 2000, Việt Nam trở thành nước sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới, chiếm 1/10 giá trị xuất khẩu cà phê toàn cầu.
Theo tờ AP, Việt Nam đang hy vọng rằng những người nông dân như ông Tâm sẽ được hưởng lợi từ việc thay đổi trật tự giao dịch cà phê, do luật pháp châu Âu siết chặt hơn vấn đề trồng cây cà phê để không ảnh hưởng đến các khu vực đất rừng.
Theo Quy định chống phá rừng của châu Âu (EUDR), từ ngày 30/12/2024, các công ty không thể xuất khẩu một số nhóm sản phẩm vào thị trường này nếu không chứng minh được sản phẩm của họ không liên quan đến nạn phá rừng. Các quy định mới sẽ áp dụng cho 6 nhóm hàng gồm: ca cao, cà phê, đậu nành, dầu cọ, gỗ, cao su và gia súc. Để bán những sản phẩm đó ở châu Âu, các công ty lớn sẽ phải cung cấp bằng chứng cho thấy sản phẩm được sản xuất trên những vùng đất không bị ảnh hưởng bởi nạn phá rừng tính từ thời điểm 2020. Với các công ty nhỏ, tính hiệu lực của quy định EUDR được lùi lại tới tháng 7/2025.
Thống kê cho thấy phá rừng là nguồn phát thải carbon lớn thứ hai thế giới sau nhiên liệu hóa thạch. Theo báo cáo của Quỹ Động vật hoang dã Thế giới xuất bản năm 2021, châu Âu đứng thứ hai sau Trung Quốc về diện tích rừng bị phá do ảnh hưởng của quá trình nhập khẩu hàng hóa vào thị trường này trong năm 2017. Nếu được triển khai tốt, EUDR không chỉ giúp giảm thiểu phát thải CO2 và nạn phá rừng, mà còn biến các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về truy xuất nguồn gốc trở thành “bình thường mới”, AP dẫn lời Helen Bellfield, Giám đốc chính sách tại tổ chức phi lợi nhuận Global Canopy.
Tuy nhiên chuyên gia Helen Bellfield cũng chỉ ra quy định này không thể mang lại hiệu quả tuyệt đối. Bởi các công ty có thể bán sản phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn EUDR qua những thị trường khác, khiến hiệu quả giảm nạn phá rừng về 0. Hay quy định EUDR sẽ đặt những nông hộ nhỏ lẻ bên lề cuộc chơi, do họ không thể cung cấp nguồn dữ liệu đầu vào phù hợp.
Hiện tại, đơn đặt hàng cà phê trồng tại Ethiopia đã giảm. Trong khi đó, Peru cũng đang đối mặt vấn đề thiếu thông tin về nguồn gốc cà phê và cacao trồng trên đất rừng ở Amazon. Với Việt Nam, chứng minh cà phê không trồng trên đất phá rừng cũng là một thách thức không nhỏ, bên cạnh tình trạng hạn hán ngày càng trầm trọng và mực nước ngầm sụt giảm.
“Sẽ có người thắng và có kẻ thua”, chuyên gia Helen Bellfield khẳng định.
Trong cuộc chiến này, Việt Nam không thể thua bởi châu Âu là thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam, chiếm 40% tổng lượng cà phê xuất khẩu mỗi năm. Sáu tuần sau khi EUDR được phê duyệt, Bộ Nông nghiệp -Phát triển nông thôn Việt Nam đã bắt đầu chuẩn bị để các tỉnh trồng cà phê bước vào cuộc chuyển đổi. Một kế hoạch quốc gia được vạch ra, trong đó có chi tiết về thời gian triển khai thu thập, xây dựng cơ sở dữ liệu liên quan đến nơi trồng cây cà phê và các cơ chế để truy xuất nguồn gốc thông tin này.
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông Lê Minh Hoan, EUDR có thể giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang xu hướng canh tác bền vững, vốn là “một sự thay đổi không thể tránh khỏi”, “một sự thay đổi khó khăn nhưng nếu không thay đổi chúng ta còn khó khăn hơn nữa”.
Trong tâm thế của những người sản xuất, ông Tâm và đối tác xuất khẩu của ông, nhà sáng lập Aeroco Coffee Lê Đình Tú, đã nhanh chóng tìm cách thích nghi. Tú cho biết, ngay cả khi chi phí đầu vào cao hơn, họ vẫn đạt được mức giá tốt cho những hạt cà phê chất lượng cao của mình.
“Chúng ta phải chọn chất lượng cao nhất. Nếu không, chúng ta mãi chỉ là người lao động tay chân”, Tú vừa nói vừa nhâm nhi tách cà phê yêu thích tại nhà máy chế biến cà phê đặt bên cạnh trang trại của ông Tâm. Tú đã có chứng chỉ từ các cơ quan quốc tế về tính bền vững để giúp anh giải quyết được bài toán EUDR đặt ra.
Nhưng với khoảng nửa triệu hộ nông dân nhỏ lẻ của Việt Nam, những người sản xuất 85% sản lượng cà phê mỗi năm, có thể thu thập và cung cấp dữ liệu chứng minh trang trại của họ không gây ra nạn phá rừng vẫn là một thách thức. Về phía doanh nghiệp nhỏ, họ cũng cần thiết lập hệ thống để ngăn chặn các sản phẩm không đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu của EUDR bị trộn lẫn với sản phẩm đã đáp ứng yêu cầu.
Ngoài ra, chuỗi giá trị trải dài của ngành cà phê, từ lúc trồng trọt, thu hái, sản xuất, chế biến đến xuất khẩu, đòi hỏi hệ thống kỹ thuật số đủ mạnh để đảm bảo quá trình thu thập, ghi nhận dữ liệu không xảy ra lỗi.
Chuyên gia Bellfield của Global Canopy cho biết Brazil, nhà sản xuất cà phê lớn nhất thế giới, hiện ở vị thế tốt hơn Việt Nam, vì cà phê của nước này mọc trên các đồn điền cách xa rừng, và chuỗi cung ứng cà phê của Brazil được tổ chức tương đối tốt. Theo một nghiên cứu do Brazil xuất bản năm 2024, Brazil có ít nông dân sản xuất nhỏ lẻ hơn Việt Nam và khoảng 1/3 diện tích trồng cà phê tại đây có chứng nhận canh tác bền vững.
Phía EUDR đã thừa nhận sự quan tâm đối với các nhà cung cấp nhỏ lẻ, kém lợi thế bằng cách cho họ thêm thời gian chuẩn bị. Đồng thời chính phủ châu Âu cho biết sẽ làm việc với các quốc gia bị ảnh hưởng để “tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi” và “đặc biệt chú ý” đến nhu cầu của các chủ sở hữu nhỏ lẻ, các cộng đồng bản địa. Dự kiến năm 2028 châu Âu sẽ ban hành một bản đánh giá về tác động của EUDR với các hộ sản xuất nhỏ.
“Bất chấp những nỗ lực này, chúng tôi dự đoán các cộng đồng nhỏ lẻ vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn và tốn kém”, chuyên gia Bellfield nhìn nhận.
Theo một nghiên cứu về tác động EUDR thực hiện bởi Liên minh doanh nghiệp Amazon, tại Peru, việc thu thập thông tin từ hàng trăm nghìn nông dân nhỏ lẻ trồng cà phê gặp khó khăn do hầu hết nông dân không có chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tại Ethiopia, nơi cà phê chiếm khoảng 1/3 kim ngạch xuất khẩu quốc gia, người đứng đầu Hiệp hội các nhà xuất khẩu cà phê Ethiopia, ông Gizat Worku, cho biết kế hoạch quốc gia được triển khai vào tháng 2/2024 không giải quyết được vấn đề cơ bản là làm thế nào để thu thập dữ liệu cần thiết từ hàng triệu nông dân nhỏ và cung cấp thông tin đó cho người mua.
“Điều đó đòi hỏi một lượng lớn nguồn lực”, ông Gizat Worku cho biết.
Ông Gizat nói rằng các đơn đặt hàng cà phê Ethiopia đang suy giảm do nghi ngờ về khả năng tuân thủ EUDR của nước này. Ông cho biết, một số thương nhân Ethiopia đang dự tính chuyển xuất khẩu sang các thị trường khác, như Trung Đông hay Trung Quốc, nhưng việc chuyển đổi thị trường không hề dễ dàng. “Những quy định của EUDR sẽ có tác động khủng khiếp”, Gizat Work cảm thán.