
Ngày 28/09, Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) đã tổ chức phiên họp chuyên đề Ủy ban IV về phát triển nguồn lực và dịch vụ, trong khuôn khổ Mô hình Toàn cảnh Kinh tế tư nhân (ViPEL).
Tại đây, ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó chủ tịch HĐQT Hãng hàng không Vietjet (mã VJC) cho biết, trong mô hình “công - tư đồng kiến quốc”, chữ “đồng” ở đây bao gồm: đồng chiến lược - đồng chính sách - đồng thực thi và kiểm tra giám sát. Nhưng để cơ chế ba “đồng” này vận hành cần có một tổ chức để thể chế hoá. Tổ chức này phải có cơ chế vận hành cụ thể, với sự tham gia của cả đại diện Nhà nước, Đảng, Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp.
“Khi tổ chức được thành lập, việc bàn thảo chiến lược là cần thiết, nhưng chiến lược chỉ diễn ra một lần. Điều quan trọng nhất chính là chính sách, bởi chính sách giải quyết các vấn đề cụ thể”, ông Tuấn nói.
![]() |
Đại biểu chia sẻ ý kiến tại phiên họp (ông Nguyễn Anh Tuấn thứ 3 từ trái). Ảnh: Lê Toàn |
Trong đó, khi giao dự án cho doanh nghiệp tư nhân, chính sách phải nêu rõ yêu cầu để nâng cao năng lực trong nước. Khi Nhà nước giao quyền chủ đầu tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp đó có trách nhiệm sử dụng nhà thầu Việt Nam, đồng thời giải quyết bài toán chuyển giao công nghệ. Chỉ khi doanh nghiệp Việt Nam làm chủ đầu tư mới có thể yêu cầu tổng thầu thực hiện những công việc phục vụ mình.
Thực tế, năng lực chủ đầu tư chính là tầm nhìn của nhà đầu tư: nhìn ra vấn đề, cơ hội, xây dựng hệ thống tổ chức thực hiện và tìm tổng thầu phù hợp.
Do đó, ông Tuấn nhấn mạnh, Việt Nam cần tìm và xây dựng đội ngũ các nhà đầu tư chính - những chủ đầu tư có đủ năng lực tham gia các dự án lớn. Mục tiêu ViPEL là xây dựng ít nhất 20 mô hình công - tư cấp quốc gia là 20 dự án lớn, nên cần những nhà đầu tư mang tính dẫn dắt. Có được các nhà đầu tư này mới hình thành được các tổng thầu, tìm ra nhà thầu và xây dựng đội ngũ vận hành.
Đặc biệt, các nhà đầu tư này phải có định hướng rõ ràng về dự án tham gia. Đó phải là các dự án mang tầm chiến lược quốc gia, có lợi thế và lợi thế cạnh tranh quốc gia, thuộc lĩnh vực mà Việt Nam sở hữu tài nguyên, ví dụ ngành dầu khí có dầu lửa là tài nguyên, ngành hàng không có bầu trời,…
“Bất cứ lĩnh vực nào thuộc lợi thế quốc gia, chúng ta phải tìm các chủ đầu tư, giao cho họ nhiệm vụ làm chủ lĩnh vực đó. Khi giao cho họ, năng lực nhà đầu tư sẽ hình thành và phát triển. Chúng ta hiện có một đội ngũ nhưng trước đây phát triển tự phát. Nay phải phát triển các nhà đầu tư theo chiến lược quốc gia”, ông Tuấn nói.
Sau khi tìm được các nhà đầu tư sẽ tiến tới việc phát triển năng lực tổng thầu. Ở Ủy ban IV, nhiệm vụ làm chính sách phải đặt ra yêu cầu rõ ràng về chuyển giao công nghệ, sử dụng và xây dựng năng lực tổng thầu.
“Chuyển giao công nghệ không chỉ là mua bán, mà là quá trình tiếp nhận công nghệ qua tham gia tổng thầu, nhà thầu các dự án, đặc biệt là khi doanh nghiệp Việt Nam làm chủ đầu tư”, ông Tuấn mạnh và lấy dẫn chứng từ ngành dầu khí. Trước đây, ngành này phụ thuộc nhiều vào nhà thầu và công nghệ nước ngoài, nhưng nhờ vai trò chủ đầu tư, Việt Nam đã làm chủ phần lớn công nghệ, từ đó cho ra đời doanh nghiệp chuyên thăm dò khai thác dầu khí.
Hay bản thân các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản cũng hình thành những tổng thầu lành nghề nhờ được giao thực hiện nhiều dự án lớn. Trong khi đó, tổng thầu Việt Nam thường bị loại ngay từ vòng đầu đấu thầu vì thiếu hồ sơ năng lực.
“Muốn xây dựng năng lực tổng thầu, phải tạo cơ hội thực hiện dự án để tích lũy kinh nghiệm, nâng cao năng lực và xây dựng hồ sơ. Không ai có thể trở thành tổng thầu lớn nếu không có khởi đầu. Hiện nay, tổng thầu trong nước vẫn ở thế lép vế; hầu hết dự án lớn mang tên tổng thầu nước ngoài, trong khi phần lớn công việc thực tế do người Việt đảm nhận. Nếu không giao việc, năng lực tổng thầu Việt Nam sẽ khó được nâng cao”, Phó Chủ tịch HĐQT Vietjet nêu.
Khi tổ chức đã có chiến lược và chính sách rõ ràng, mạch lạc, giao dự án cho chủ đầu tư Việt Nam sẽ mở ra vấn đề cốt lõi: huy động vốn. Trong lĩnh vực tài chính, khả năng thu xếp vốn phụ thuộc vào rủi ro dự án. Với dự án khả thi, Việt Nam hoàn toàn có thể huy động vốn trong nước và quốc tế, bài toán vốn sẽ hiệu quả, tốc độ triển khai nhanh, chi phí vốn và chi phí cơ hội đều thấp.
Nhưng để làm được tất cả các vấn đề trên, ông Tuấn quay về câu chuyện thiết kế và thực thi chính sách, mà điểm bắt đầu là cần cơ chế tổ chức như một bộ máy hoàn chỉnh, với thể chế và cơ chế vận hành rõ ràng.
“Vấn đề quan trọng không phải dự án cụ thể, mà là cách vận hành của bộ máy. Khi đã có khuôn khổ, bất kỳ dự án nào triển khai theo mô hình này cũng sẽ phát huy hiệu quả”, ông Tuấn khẳng định.