Phổ cập tài chính: Phát triển tiên phong dịch vụ thanh toán

(ĐTCK) Phổ cập tài chính là một trong những chủ đề đang được ưu tiên thảo luận trong chương trình nghị sự của các nhà lãnh đạo toàn cầu, tổ chức quốc tế cũng như chính phủ tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực với quy mô lớn.
Phổ cập tài chính: Phát triển tiên phong dịch vụ thanh toán

Tại Việt Nam, Chính phủ hiện nay cũng đã có định hướng phát triển phổ cập tài chính và Ngân hàng Nhà nước là đơn vị được giao nhiệm vụ điều phối chung xây dựng một chiến lược phổ cập tài chính quốc gia, dự kiến ban hành vào năm 2018.

Tạo nền tảng từ dịch vụ thanh toán

Phổ cập tài chính là việc cung cấp các dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho mọi thành viên xã hội với mức chi phí hợp lý, đặc biệt chú trọng đến nhóm cá nhân và tổ chức yếu thế, chưa được tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính chính thống.

Giai đoạn trước đây, khi chưa có khái niệm “phổ cập tài chính”, tài chính vi mô được coi là sáng kiến quan trọng để giúp nhóm người yếu thế có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính, phát triển chủ yếu ở lĩnh vực tín dụng.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát từ các khoản vay dưới chuẩn ở thị trường Mỹ năm 2007, các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách trên thế giới đã nhìn nhận lại và xác định cần phải có định hướng phổ cập tài chính một cách bền vững mới có thể đạt được hiệu quả tăng trưởng, phát triển bền vững, giảm nghèo, ổn định tài chính mà phổ cập tài chính mang lại.

Phổ cập tài chính: Phát triển tiên phong dịch vụ thanh toán ảnh 1

Với tầm quan trọng đó, phổ cập tài chính là một trong những chủ đề đang được ưu tiên thảo luận trong chương trình nghị sự của các nhà lãnh đạo toàn cầu, tổ chức quốc tế cũng như chính phủ tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực với quy mô rộng như GPFI-G20, WB, BIS, AFI, UNCDF, CEMLA….

Kết quả của sự hợp tác đó là đến nay có khoảng 55 quốc gia đã thể hiện cam kết thúc đẩy phổ cập tài chính, trong đó hơn 30 nước - chủ yếu là các nước đang phát triển, đã và đang trong quá trình ban hành và triển khai một Chiến lược phổ cập tài chính quốc gia (theo Ngân hàng Thế giới - WB, 2017), thậm chí có quốc gia đang triển khai ở giai đoạn 3.

Chính phủ Việt Nam hiện nay cũng đã có định hướng phát triển phổ cập tài chính và Ngân hàng Nhà nước là đơn vị được giao nhiệm vụ điều phối chung xây dựng một chiến lược phổ cập tài chính quốc gia, dự kiến ban hành vào năm 2018 và triển khai các chương trình/dự án liên quan.

Về tổng thể, chiến lược phổ cập tài chính đến giai đoạn này đã xác định rõ ràng dịch vụ thanh toán cần được phát triển tiên phong để tạo nền tảng mở rộng tới các dịch vụ tài chính khác một cách vững chắc.

Tỷ lệ người trưởng thành không có tài khoản ngân hàng tập trung chủ yếu ở 25 quốc gia (trong đó có Việt Nam) chiếm 73% số người không có tài khoản trên toàn cầu, riêng Ấn Độ và Trung Quốc là hai quốc gia đã chiếm đến 32% tổng con số thống kê   

Năm 2016, một báo cáo khuyến nghị hành động có tính chất toàn cầu về phát triển thanh toán trong phổ cập tài chính của Nhóm đặc trách PAFI (Payment Aspects of Financial Inclusion) đã được Ngân hàng Thế giới phối hợp cùng Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ban hành làm căn cứ để các nước triển khai theo các nguyên tắc hướng dẫn chung cho mỗi quốc gia, đại diện Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Vụ Thanh toán) được mời tham gia với tư cách thành viên Ban soạn thảo.

Báo cáo PAFI xác định mục tiêu cuối cùng của phát triển thanh toán trong phổ cập tài chính là việc đảm bảo mỗi người dân, doanh nghiệp và cơ quan chính phủ được tiếp cận và sử dụng thường xuyên ít nhất một tài khoản giao dịch trong các giao dịch thanh toán hàng ngày.

Tài khoản giao dịch – bước đầu tiến tới phổ cập tài chính 

Tài khoản giao dịch được hiểu là tài khoản được sử dụng để chuyển - nhận các khoản thanh toán và lưu trữ giá trị tiền tệ. Như vậy, chức năng thanh toán là đặc điểm nhận biết quan trọng của tài khoản này.

Theo cách hiểu đó, tài khoản giao dịch sẽ bao gồm tài khoản thanh toán/tài khoản vãng lai do các ngân hàng cung ứng rất phổ biến hiện nay và một loại hình tài khoản được công nhận gần đây là tài khoản tiền điện tử (e-money) hay tài khoản tiền di động (mobile money) do các tổ chức phi ngân hàng cung ứng, ví dụ tổ chức phát hành tiền điện tử, ví điện tử, thậm chí là tổ chức cung ứng dịch vụ mạng viễn thông di động (MNOs) được cơ quan có thẩm quyền cấp phép.

Tài khoản tiền điện tử bị hạn chế về tính năng, thông thường chỉ được sử dụng ở môi trường cơ sở hạ tầng do chính các tổ chức phi ngân hàng cung ứng, không cho phép chủ tài khoản thực hiện giao dịch ở các hệ thống thanh toán của ngân hàng (ví dụ ATM/POS).

Tuy nhiên, loại hình tài khoản này được công nhận độc lập (nghĩa là không cần phải duy trì một tài khoản thanh toán tại ngân hàng đi kèm như quy định của Việt Nam) và có thể liên thông được với tài khoản thanh toán của ngân hàng (có thể chuyển và nhận tiền giữa hai tài khoản).

Với chi phí thấp và yêu cầu xác thực người sử dụng (KYC/CDD) đơn giản hơn tài khoản thanh toán, tài khoản tiền điện tử có thể giúp cho những người chưa được tiếp cận dịch vụ tài chính có được một tài khoản giao dịch đầu tiên, tạo điều kiện cho họ làm quen với các dịch vụ tài chính phức tạp hơn, do đó có thể đóng góp đáng kể vào mục tiêu phổ cập tài chính.

Một số quốc gia đang xem xét ban hành quy định các tổ chức cung ứng dịch vụ tài khoản phải thiết kế một loại tài khoản giao dịch có tên là tài khoản cơ bản (basic account) với tính năng, yêu cầu KYC đơn giản, chi phí duy trì thấp (thậm chí có xu hướng không yêu cầu duy trì số dư tối thiểu) và có thiết lập hạn mức số dư tối đa (phục vụ mục đích về phòng chống rửa tiền - AML) để phục vụ cho nhóm khách hàng mục tiêu trong chiến lược phổ cập tài chính.

Đồng thời, việc thiết kế tài khoản cơ bản với mức độ rủi ro thấp cũng tạo điều kiện cho mạng lưới đại lý (bưu điện, cửa hàng bán lẻ…) của các tổ chức được cấp phép tham gia vào việc cung ứng dịch vụ thu hộ, chi hộ từ loại tài khoản này, giúp gia tăng các điểm giao dịch cho khách hàng với chi phí rẻ đáng kể so với mạng lưới chi nhánh truyền thống của ngân hàng.

Tài khoản giao dịch là dịch vụ tài chính đơn giản nhất, dễ dàng tiếp cận nhất và được sử dụng thường xuyên nhất so với các dịch vụ tài chính khác vì để phục vụ cho nhu cầu cơ bản của xã hội là cất trữ, chuyển và nhận các khoản tiền hàng ngày.

Chiến lược phổ cập tài chính đã xác định việc cung ứng tài khoản giao dịch để tạo điều kiện cho mục đích thanh toán và cất trữ chỉ là bước khởi đầu để tiếp cận tới tất cả các sản phẩm và dịch vụ tài chính khác nhau như tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm và đầu tư, nói cách khác là bước đầu tiên để có thể tiến tới phổ cập tài chính một cách toàn diện. 

Thực trạng sử dụng tài khoản giao dịch trên toàn cầu

Cơ sở dữ liệu tài chính toàn cầu (Findex) cho thấy, mặc dù trong khoảng từ năm 2011 đến năm 2014 số người trưởng thành có tài khoản giao dịch đã tăng lên khoảng 700 triệu người, nhưng hiện nay còn gần 40% số người trưởng thành trên toàn thế giới - khoảng 2 tỷ người - vẫn không có tài khoản giao dịch để thực hiện thanh toán.

Ở các quốc gia có thu nhập thấp, tỷ lệ này cao hơn đáng kể hơn so với mức trung bình toàn cầu. Tỷ lệ người trưởng thành không có tài khoản ngân hàng tập trung chủ yếu ở 25 quốc gia (trong đó có Việt Nam) chiếm 73% số người không có tài khoản trên toàn cầu, riêng Ấn Độ và Trung Quốc là hai quốc gia đã chiếm đến 32% tổng con số thống kê.

Ngân hàng Thế giới cho rằng, phổ cập tài chính là một nhân tố quan trọng giúp giảm đói nghèo và cải thiện tăng trưởng nên đã đặt ra mục tiêu về Tiếp cận Tài chính Toàn cầu – UFA (Universal Financial Access) phải đạt được là đến năm 2020 trên toàn thế giới, tất cả người dân trưởng thành được tiếp cận với một tài khoản giao dịch để cất trữ tiền, chuyển và nhận các khoản thanh toán.

Với sáng kiến UFA 2020, Ngân hàng Thế giới đã cam kết giúp cho 1 tỷ người được tiếp cận tài khoản giao dịch và đồng thời, kêu gọi được 30 đối tác tham gia cam kết cùng triển khai để đạt được mục tiêu này.

Thực tế, quá trình này gặp phải trở ngại khi có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc tiếp cận và sử dụng thường xuyên tài khoản giao dịch.

Bao gồm: mức phí duy trì tài khoản giao dịch cao, cũng như chi phí gián tiếp cao (ví dụ chi phí di chuyển đến một chi nhánh hoặc điểm cung ứng dịch vụ); mức thu nhập thấp của đại bộ phận người dân; hoạt động phi chính thức của thị trường lao động cũng như hoạt động kinh tế; không có sự quan tâm đầy đủ đến khía cạnh về giới; nhu cầu văn hóa và tôn giáo, tín ngưỡng; nhận thức và kiến thức về tài chính còn hạn chế; việc thiết kế tài khoản giao dịch/sản phẩm thanh toán không đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người sử dụng; và định kiến về sự không an toàn của tài khoản giao dịch của một bộ phận người sử dụng.

Bên cạnh đó, hơn 200 triệu doanh nghiệp vi mô, nhỏ và vừa (MSME) ở các nước mới nổi không có đủ vốn vay để phát triển bởi một số lý do là không có tài sản thế chấp, thông tin lịch sử tín dụng và không có tài khoản giao dịch bởi hoạt động kinh doanh chủ yếu là phi chính thức. Phụ nữ, người nghèo và người ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa cũng như MSME là nhóm người chiếm tỷ lệ lớn không được tiếp cận dịch vụ tài chính.

Khoảng cách về giới tiếp cận dịch vụ tài chính ở các nước đang phát triển là 9 điểm phần trăm với 59% nam giới có một tài khoản giao dịch trong khi ở phụ nữ con số này là 50% năm 2014.

Đặc biệt, một thách thức lớn hiện nay đối với một nhóm người dân ở các quốc gia đang trong tình trạng bị cô lập và chiến tranh với 80% người không được tiếp cận với dịch vụ tài chính chính thức.

Theo khuyến nghị tại Báo cáo PAFI (Payment Aspects of Financial Inclusion), để giải quyết những rào cản tiếp cận và sử dụng tài khoản giao dịch nhằm đạt mục tiêu đề ra, các quốc gia cần thiết kế các giải pháp dựa trên 7 nguyên tắc chung.

Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động nghiên cứu, đánh giá và lồng ghép các giải pháp tăng cường tiếp cận và sử dụng tài khoản giao dịch vào Đề án Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào cuối năm 2016.

Nguyên tắc số 1: Cam kết của khu vực công và tư nhân

Cụ thể, cam kết của chính phủ và các tổ chức tư nhân trong việc mở rộng phổ cập tài chính phải được thể hiện một cách rõ ràng, chắc chắn và ổn định theo thời gian.

Hiện tại, chủ trương thúc đẩy phổ cập tài chính tại Việt Nam đã được Chính phủ định hướng và giao NHNN là cơ quan chủ trì và điều phối chung về phổ cập tài chính tại Việt Nam, trong đó xây dựng chiến lược phổ cập tài chính quốc gia, dự kiến ban hành vào năm 2018.

Cơ sở hạ tầng tài chính cốt lõi phục vụ cho phổ cập tài chính tại Việt Nam đã được định hướng phát triển trước một bước.

Từ năm 2006 đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 3 Đề án Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg; Quyết định số 2453/QĐ-TTg và Quyết định 2545/QĐ-TTg), với nhiều giải pháp phát triển hệ thống, phương tiện và dịch vụ thanh toán trong nền kinh tế, đã góp phần hình thành cơ sở hạ tầng tài chính quan trọng, thúc đẩy phổ cập tài chính trong thời gian tới.

Nguyên tắc số 2: Khuôn khổ pháp lý và quản lý

Khuôn khổ pháp lý và các quy định phải có tính hỗ trợ cho phổ cập tài chính thông qua việc giải quyết có hiệu quả những rủi ro liên quan và bảo vệ người tiêu dùng, đồng thời vẫn đảm bảo thúc đẩy được các yếu tố đổi mới và cạnh tranh.

Tại Việt Nam, hành lang pháp lý, các cơ chế, chính sách cho hoạt động thanh toán đã được bổ sung, xác lập và ngày càng hoàn thiện; hệ thống văn bản từ luật, nghị định, đến thông tư được ban hành một cách khá đồng bộ, tạo lập hành lang pháp lý quan trọng, điều chỉnh đối với các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động thanh toán trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi hơn, khuyến khích phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, tăng cường quản lý thanh toán bằng tiền mặt và bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.

Theo đó, từ năm 2011, Luật NHNN và Luật Tổ chức tín dụng 2010 có hiệu lực thi hành, trong đó bổ sung một số quy định trong lĩnh vực thanh toán để phù hợp với xu thế phát triển. Vai trò và vị thế của NHNN được khẳng định trong việc tổ chức, quản lý, vận hành Hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng (IBPS), giám sát các hệ thống thanh toán quan trọng và quản lý các phương tiện thanh toán trong nền kinh tế.

NHNN đã xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định 101/2012/NĐ-CP quy định về thanh toán không dùng tiền mặt, Nghị định 80/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 101/2012/NĐ-CP, tạo lập hành lang pháp lý quan trọng, điều chỉnh đối với các tổ chức, đơn vị, cá nhân tham gia vào hoạt động thanh toán.

Giai đoạn 2010-2016, NHNN ban hành 21 thông tư để hướng dẫn về các lĩnh vực dịch vụ thanh toán điện tử; dịch vụ trung gian thanh toán; phí dịch vụ thanh toán, phí thẻ ghi nợ nội địa; mở và sử dụng tài khoản thanh toán; yêu cầu kỹ thuật về an toàn bảo mật đối với trang thiết bị phục vụ thanh toán thẻ và hoạt động thẻ ngân hàng; quản lý, sử dụng chữ ký số, chứng thư số và dịch vụ chứng thực chữ ký số; thanh toán séc; quản lý, vận hành và đảm bảo an ninh an toàn hoạt động của ATM…

Bên cạnh đó, hành lang pháp lý hiện nay đã hỗ trợ các tổ chức không phải ngân hàng có thể tham gia vào thị trường cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, góp phần mở rộng mạng lưới và đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, thanh toán phục vụ nhu cầu đa dạng của khách hàng, tiến tới thúc đẩy mục tiêu phổ cập tài chính.

Nguyên tắc số 3: Cơ sở hạ tầng tài chính, công nghệ thông tin và truyền thông

Cơ sở hạ tầng tài chính và công nghệ thông tin khi được phát triển mạnh mẽ, an toàn, hiệu quả và có độ bao phủ rộng sẽ có hiệu quả đối với việc cung ứng các dịch vụ tài khoản giao dịch và cũng hỗ trợ cho việc cung ứng các dịch vụ tài chính khác.

Cơ sở hạ tầng tài chính, công nghệ thông tin và truyền thông phục vụ cho phổ cập tài chính cần phải được thiết kế đảm bảo có đầy đủ các hệ thống cốt lõi sau:

Phổ cập tài chính: Phát triển tiên phong dịch vụ thanh toán ảnh 4

Thứ nhất, hệ thống cơ sở hạ tầng thanh toán đã được thiết lập cùng với sự triển khai của Hệ thống IBPS.

Thứ hai, NHNN đã tập trung chỉ đạo xây dựng và triển khai phương án sáp nhập CTCP Dịch vụ thẻ Smartlink vào Banknetvn để triển khai Đề án Xây dựng trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất.

Đến nay, 2 công ty đã hoàn thành việc sáp nhập và đổi tên là CTCP Thanh toán quốc gia Việt Nam (NAPAS), qua đó tập trung chuyển mạch về một đầu mối, tạo thuận lợi và hiệu quả hơn trong việc kết nối, chuyển mạch thẻ tại Việt Nam.

Thứ ba, các ngân hàng thương mại tiếp tục quan tâm, chú trọng đầu tư, cập nhật và phát triển hệ thống thanh toán nội bộ, hệ thống ngân hàng lõi.

Nguyên tắc số 4: Tài khoản giao dịch và các sản phẩm thanh toán

Việc cung ứng tài khoản giao dịch và sản phẩm thanh toán phải đáp ứng có hiệu quả nhu cầu giao dịch đa dạng của nhóm dân số mục tiêu, với chi phí nhỏ hoặc không mất chi phí.

Hiện nay, tại Việt Nam, chỉ có tài khoản thanh toán do ngân hàng cung ứng mới được công nhận trong các quy định pháp lý hiện hành và cũng chỉ có loại hình tài khoản thanh toán duy nhất phục vụ cho tất cả các đối tượng. Việc thiết kế tài khoản theo từng đối tượng khách hàng do các ngân hàng tự quyết định. Việc cung ứng tài khoản cho đối tượng khách hàng thu nhập thấp và yếu thế chưa được các ngân hàng đẩy mạnh.

Bên cạnh tài khoản thanh toán, có loại hình tài khoản ví điện tử (có bản chất giống tài khoản tiền điện tử của các nước) do tổ chức trung gian thanh toán phát hành. Tuy nhiên, loại tài khoản này vẫn chưa phát huy được hết ưu điểm, bởi người sử dụng vẫn cần phải có tài khoản thanh toán của ngân hàng đi kèm để đảm bảo an toàn.

Nguyên tắc số 5: Mức độ sẵn có các điểm tiếp cận dịch vụ

Tài khoản giao dịch sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn khi có được một mạng lưới điểm tiếp cận có độ bao phủ rộng về mặt địa lý và nhiều kênh tiếp cận có khả năng liên thông với nhau.

Mạng lưới điểm tiếp cận dịch vụ thanh toán điện tử tại Việt Nam khá đa dạng và đang dần được mở rộng theo phạm vi địa lý, cũng như phạm vi cung ứng dịch vụ, chẳng hạn: hạ tầng mạng lưới ATM/POS đã được tập trung đầu tư phát triển và cải thiện chất lượng từ năm 2006 trên khắp 63 tỉnh, thành phố cả nước, với 17.500 ATM và 263.000 POS tính đến hết tháng 12/2016...

NHNN đã chỉ đạo công ty chuyển mạch, các đơn vị liên quan hoàn thành kết nối liên thông hệ thống ATM/POS trên phạm vi toàn quốc, qua đó thẻ của một ngân hàng đã có thể sử dụng để rút tiền và thanh toán tại hầu hết ATM/POS của các ngân hàng khác.

Việc triển khai các dịch vụ thanh toán điện tử qua Internet và điện thoại di động đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Đến nay, tại Việt Nam, đã có 70 tổ chức tín dụng triển khai cung ứng các dịch vụ thanh toán qua Internet và 35 tổ chức cung ứng các dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động.

Phổ cập tài chính: Phát triển tiên phong dịch vụ thanh toán ảnh 5

Hạ tầng mạng lưới thanh toán thương mại điện tử đã được thiết lập và tiếp tục phát triển với sự gia tăng số lượng tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, với nhiều loại hình và kênh thanh toán sử dụng tài khoản giao dịch. Đến nay, có 21 tổ chức trung gian thanh toán được cấp phép, với 3,9 triệu ví điện tử được phát hành.

Cùng với xu thế triển khai mô hình ngân hàng đại lý của các quốc gia đi đầu về phổ cập tài chính, NHNN đã xây dựng và triển khai thí điểm một số hình thức ủy thác thanh toán, qua đó sử dụng các phương thức thanh toán hiện đại nhưng dễ sử dụng, phù hợp với địa bàn nông thôn để mở rộng các điểm tiếp cận dịch vụ trên địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo.

Nguyên tắc số 6: Nâng cao nhận thức và hiểu biết tài chính

Thông qua những chương trình nâng cao nhận thức và phổ cập kiến thức tài chính, người dân phải được trang bị kiến thức về lợi ích của việc sử dụng tài khoản giao dịch, cách thức sử dụng tài khoản một cách hiệu quả với mục đích thanh toán hay lưu trữ giá trị, cũng như cách thức tiếp cận các dịch vụ tài chính khác.

Hiện tại, NHNN cùng các ngân hàng thương mại đã và đang tích cực, triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức, cung cấp thông tin về các phương tiện, dịch vụ thanh toán điện tử nhằm giúp cho công chúng, người sử dụng và các tổ chức trong xã hội hiểu, tiếp cận và sử dụng các phương tiện, dịch vụ thanh toán qua tài khoản, tạo được sự chuyển biến bước đầu về thói quen sử dụng tiền mặt.

Nguyên tắc số 7: Luồng thanh toán thường xuyên khối lượng lớn

Các luồng thanh toán với số lượng giao dịch lớn và thường xuyên, kể cả chuyển tiền, được tận dụng để thúc đẩy mục tiêu phổ cập tài chính, cụ thể bằng cách gia tăng số lượng tài khoản giao dịch và tạo động lực cho việc sử dụng thường xuyên các tài khoản này.

Từ năm 2006 đến nay, Chính phủ có 2 sáng kiến quan trọng, giúp gia tăng luồng thanh toán với số lượng giao dịch lớn và định kỳ, góp phần thúc đẩy mục tiêu phổ cập tài chính, bao gồm:

Thứ nhất, triển khai chương trình trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương ngân sách nhà nước. Chương trình này đã thúc đẩy việc gia tăng đáng kể số lượng tài khoản giao dịch và tạo thói quen sử dụng tài khoản để thanh toán các khoản chi tiêu hàng ngày của đối tượng được trả lương.

Số lượng đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước và số cán bộ, công chức thực hiện trả lương qua tài khoản tiếp tục tăng lên; đến nay, đã có 70.505 đơn vị hưởng lương từ ngân sách nhà nước (chiếm trên 77%) thực hiện trả lương qua tài khoản, với hơn 2,28 triệu cán bộ, công chức nhận lương qua tài khoản.

Thứ hai, phối hợp thu chi ngân sách nhà nước giữa các cơ quan trong ngành tài chính (Kho bạc Nhà nước, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan) với các ngân hàng thương mại.

Nghiêm Thanh Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Đặc san toàn cảnh Ngân hàng Việt Nam 2017

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục