
Bài 3: Cương lĩnh hành động đồng bộ và chủ động kiểm soát từ xa
Trên cơ sở tầm nhìn chiến lược, phát hiện những mâu thuẫn trong phát triển, chuẩn bị những điều kiện có tính chất và đủ để hành động một cách kiên định đã thành công một nửa, thậm chí có ý nghĩa quyết định thành công.
Động lực phát triển chiến lược
Tăng trưởng cao đồng nghĩa với thu nhập kinh tế của người lao động gia tăng, mở rộng tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất, tạo thêm việc làm, giữ ổn định vĩ mô, đảm bảo kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao, cần đột phá về thể chế, xóa bỏ rào cản về thủ tục hành chính; huy động, thu hút và thực hiện các nguồn vốn đầu tư; phát huy hiệu quả lợi thế của các hiệp định thương mại tự do (FTA), duy trì động lực tăng trưởng dựa vào xuất khẩu.
Trong hệ động lực tổng thể, nổi bật 5 động lực chiến lược cho phát triển:
Thứ nhất, con người là trung tâm, chủ thể, động lực và mục tiêu của phát triển. Muốn phát triển bền vững, phải đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, đạo đức - nhân văn; xây dựng con người có trí tuệ, bản lĩnh, sáng tạo, kỷ luật và trách nhiệm quốc gia; kiến tạo song hành xã hội hài hòa đảm bảo điều kiện sống và an sinh xã hội ở mức cao cho tất cả các thành viên, nhất là người dân có tỷ trọng chi tiêu cao cho nhu cầu phát triển toàn diện.
Thứ hai, văn hóa là nền tảng tinh thần, là sức mạnh nội sinh của sự phát triển. Không có quốc gia thu nhập cao mà văn hóa thấp. Phát triển kinh tế phải đi đôi với chấn hưng văn hóa dân tộc, phát triển văn hoá trong kinh tế. Môi trường xã hội phải đảm bảo an toàn về sức khỏe con người một cách kinh tế và thấm đẫm văn hoá. Hệ sinh thái phải được duy trì và đảm bảo cho tương lai bền vững, đó chính là kinh tế sinh thái song hành với văn hóa môi trường.
Thứ ba, khoa học và công nghệ là then chốt, là “bệ phóng” cho kinh tế tri thức và công nghiệp hóa phát triển với tốc độ cao và bền vững. Không có khoa học và công nghệ, không có bất cứ sự phát triển bứt tốc mạnh mẽ nào của lực lượng sản xuất như mong muốn, càng không có bất cứ sự đổi mới đúng đắn và phù hợp nào của quan hệ sản xuất tiến bộ của nền kinh tế - xã hội quốc gia. Do đó, chủ động đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, làm chủ công nghệ số, đặc biệt trong các ngành sản xuất công nghiệp chủ lực đất nước, dịch vụ và nông nghiệp quốc gia và dữ liệu lớn đó chính là nguồn lực cơ bản; đồng thời cảnh giới nguy cơ nô lệ số hoặc rơi vào vũng lầy thuộc địa số.
Thứ tư, cân bằng chiến lược và niềm tin chiến lược. Không có sự cân bằng chiến lược phát triển song hành với niềm tin chiến lược vận hành bằng cơ chế phù hợp với hệ thể chế tương dung xử lý kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại theo hướng cân bằng chiến lược phù hợp với các quy luật thị trường và thử thách bằng thực tiễn và trải nghiệm, nhất là không có sự bứt phá độc đáo nào, càng không có sự phát triển nhanh, mạnh, bền vững và nhân văn của nền kinh tế. Theo nghĩa nào đó, hệ miễn dịch kinh tế chính là niềm tin chiến lược trong việc chủ động tham gia kiến tạo hệ giá trị kinh tế thế giới và định vị đúng mình trong chuỗi cung ứng kinh tế toàn cầu.
Thứ năm, khát vọng dân tộc là sức mạnh mềm lớn nhất. Để bứt phá, cần chuyển hóa thành hành động thực tế trong lãnh đạo, quản trị, chính sách công khai, minh bạch, dân chủ, công bằng xã hội, đặc biệt kinh tế và xã hội luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Bất bình đẳng về kinh tế còn có thể sửa chữa, nhưng từ kinh tế dẫn tới bất bình đẳng về mặt xã hội là sự nguy hiểm. Xã hội phải dựa trên tài sản quý giá nhất là con người, phải là nguồn nhân lực có tri thức và việc làm có chất lượng và được đối đãi công bằng. Lợi ích người dân và lợi nhuận doanh nghiệp phải nằm trong việc kiến tạo thị trường thống nhất hài hòa, chứ không thể trong sự chia cắt hay bất cứ hình thức cục bộ hay khép kín nào đó của thị trường.
Nói khái quát, công nghệ - dữ liệu - niềm tin chiến lược chính là bí quyết và hợp động lực quyết định thành công.
Phương thức - lộ trình - tốc độ - điều kiện phát triển và cảnh báo các nguy cơ, hệ lụy thành bại
Cần chuyển đổi từ mô hình phát triển tồn tại sang cơ cấu, từ theo chiều rộng sang chiều sâu và chất lượng với 3 phương châm phát triển: Đột phá - Đồng bộ - Dựa vào nội lực căn bản song hành hợp tác quốc tế quan trọng.
Về phương thức phát triển, từ 3 trụ cột phát triển, đầu tư xứng đáng cơ sở hạ tầng; dựa trên đổi mới sáng tạo; sự năng động trong kinh doanh, lựa chọn 3 phương thức chính: phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và kinh tế xanh; phát triển vùng, liên kết vùng, đô thị hóa hiện đại gắn với nông thôn mới, phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân, tạo sân chơi bình đẳng và hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân phát triển.
Phương thức thứ ba là phát triển doanh nghiệp dân tộc mạnh, doanh nghiệp nhỏ và vừa sáng tạo. Tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp, tập đoàn công nghệ làm chủ các công nghệ lõi của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 với tinh thần “Make in Vietnam” phải được xem là nền tảng quan trọng, trực tiếp phát triển mạnh mẽ kinh tế số, xã hội số... Phát huy vai trò của cộng đồng doanh nghiệp trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao, cần đột phá về thể chế, xóa bỏ rào cản về thủ tục hành chính; huy động, thu hút và thực hiện các nguồn vốn đầu tư; phát huy hiệu quả lợi thế của các hiệp định thương mại tự do (FTA), duy trì động lực tăng trưởng dựa vào xuất khẩu.
Do đó, cần bảo đảm tối thiểu 4 phương diện: đổi mới căn bản từ tư duy đến hành động, từ quản lý sang kiến tạo, từ quản lý sang phục vụ Nhân dân; thu hút vốn đầu tư nước ngoài chất lượng cao, công nghệ tiên tiến và quản lý hiện đại, tập trung vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao; ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát với mục tiêu duy trì sức mua của nền kinh tế; cùng với kinh tế tăng trưởng cao, ổn định, nâng thu nhập và mức sống của người dân là các yếu tố quan trọng thúc đẩy tiêu dùng của nền kinh tế; đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và niềm tin của Nhân dân, tạo động lực bền vững cho tăng trưởng kinh tế.
Về lộ trình phát triển chiến lược mang tầm tổng thể, mọi mục tiêu dù tốt đẹp sẽ trở thành ảo tưởng, nếu thiếu lộ trình phù hợp và không thể kiểm soát. Tốc độ tăng trưởng GDP nhanh, nhưng chưa đủ, mà phải bền vững và bao trùm. Do đó, phải hoạch định lộ trình khả thi, vừa sức và lượng hóa kết quả trong nâng cao chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng.
Nói cách khác, tất cả phải được dự báo, hoạch định cụ thể và khả thi, không nửa vời trong tầm nhìn chiến lược, không cầu toàn trong kiến tạo tổng thể và càng không ảo tưởng về tốc độ phát triển. Vì nửa vời sẽ lệch lạc, cầu toàn sẽ tự đóng kín, muốn nhanh phải từng bước, muốn bền vững phải biết tiến biết thoái, thậm chí cả biết lùi chiến lược. Nói một cách hình ảnh, “thái quá bất cập”, “dục tốc bất đạt”.
Duy trì tốc độ tăng trưởng từ 7-8%/năm và tiến tới 2 con số, nhưng đảm bảo đi cùng cơ cấu kinh tế hiện đại (dịch vụ - công nghệ cao - nông nghiệp thông minh) cần bao nhiêu thời gian và những điều kiện gì? Giảm phát thải, tăng năng suất lao động và công nghệ cao một cách độc lập trong hệ thống chỉnh thể là như thế nào, cần bao nhiêu thời gian? Việc ưu tiên đầu tư công hiệu quả, tập trung vào kết cấu hạ tầng chiến lược, đặc biệt là số hóa, đô thị thông minh, năng lượng tái tạo bao gồm những phương diện nào và trật tự thực thi với thời gian bao lâu?
Từ thực tiễn phát triển của các quốc gia thành công trên phương diện này, như Trung Quốc, Malaysia, Hàn Quốc cho thấy, tất cả đều đạt tốc độ tăng trưởng liên tục trên 10% trong vòng 20 năm, trong khi Việt Nam chưa bao giờ đạt được mức độ tăng như vậy. Nền kinh tế Việt Nam có độ dài tăng trưởng hơn 40 năm, nhưng bình quân chỉ khoảng 6%. Chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu mà không phải thay thế nhập khẩu của ba nước này đang đúng với chiến lược phát triển của Việt Nam hiện nay.
Đặc biệt, về sức cạnh tranh, ba nền kinh tế này đều vượt trội. Hàn Quốc tăng trưởng đột phá với chính sách kinh tế linh hoạt, với chu kỳ 5 năm một sự đột phá. Malaysia tăng trưởng ổn định, chu kỳ thường 10 năm, chênh lệch tăng trưởng giữa các năm chỉ 2%. Trung Quốc “tăng trưởng nóng” kéo dài hơn 30 năm, nhưng khoảng cách tăng trưởng lại rất lớn (năm thấp nhất 8%, năm cao nhất 14%) và họ thành công trong tiếp thu khoa học công nghệ từ khu vực FDI.
Về hệ điều kiện phát triển, Việt Nam có tiềm năng tăng trưởng trên 8%/năm trong dài hạn và vươn tới hai con số, nhưng không thể bằng mọi giá. Để thực thi điều đó, cần thiết bảo đảm 3 điều kiện tiên quyết để đạt được tốc độ cao, mà không được phép đánh đổi phát triển bằng mọi giá.
Một là, hiện đại hóa nguồn nhân lực. Xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, sáng tạo, quản trị. Không có nguồn nhân lực chất lượng cao và có văn hóa tương xứng, không có bất cứ sự phát triển kinh tế nào như mong muốn, càng không thể nói tới sự bền vững và nhân văn của sự phát triển. Nói một cách hình ảnh, đó chính là nền kinh tế có linh hồn của đất nước.
Hai là, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ và chuyển đổi số toàn diện. Thúc đẩy chuyển đổi số trong các ngành kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh; lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chủ yếu; đồng thời coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.
Ba là, nâng cao năng lực nội sinh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân dân tộc. Ưu tiên, hỗ trợ các doanh nghiệp lớn, tiên phong dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu; thúc đẩy mạnh mẽ liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp FDI; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân vươn ra thị trường quốc tế, xây dựng thương hiệu quốc gia và quốc tế. Khuyến khích đổi mới sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, và dịch vụ để nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Cảnh giới các thách thức phát sinh giữa tăng trưởng và lạm phát, các nguy cơ tranh chấp, thậm chí chà đạp nhau vì lợi ích cục bộ, mạnh ai nấy được, nhất là thói tệ “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại” hoặc khép kín, thúc thủ và rốt cuộc bại vong ngay trên chính “sân nhà”.
Trong lộ trình đẩy tăng trưởng đột phá trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dù sẽ thứ năm, không ngừng đẩy nhanh tốc độ huy động nguồn lực, trung tâm là nguồn nhân lực; tiếp cận các cơ hội phát triển, sáng tạo, cố nhiên lường trước rủi ro trong lựa chọn hướng đầu tư vào công nghệ; mặt khác, tạo động lực và khát vọng phát triển quốc gia, tăng trưởng nhanh song hành hoá giải hệ lụy từ lạm phát và đồng thời giữ vững tốc độ tăng trưởng bằng cách cân đối và bố trí nguồn lực phát triển tương xứng và hài hoà trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thống nhất và đồng bộ: kinh tế - chính trị, kinh tế - văn hoá, kinh tế - quốc phòng, kinh tế - đối ngoại song hành với bảo vệ an ninh kinh tế và chủ quyền quốc gia.
Nếu không nắm bắt kịp các chu kỳ phát triển mới, những mâu thuẫn trong quá trình phát triển kinh tế, vô hình biến phát triển thành phản phát triển, dứt khoát thất bại và sẽ bị tụt hậu hay loại khỏi sân chơi toàn cầu.
Do đó, cần cảnh báo và hóa giải các tổ hợp rủi ro, nhất là các nguy cơ. Đó là cận thị chiến lược, khát vọng ảo tưởng, tụt hậu công nghệ, chất xám chảy máu, quản trị nửa vời; già hóa dân số; lãng quên thị trường tiêu dùng nội địa kích cầu từ bên trong quốc gia (ngày càng mở rộng, đầy tiềm năng với quy mô tiêu dùng của trên 100 triệu dân và khoảng 25 triệu khách du lịch quốc tế); lãng phí cơ hội dân số trẻ (với 62% dân số trong độ tuổi lao động)…; coi nhẹ thế mạnh dân số “vàng” (trên 50% số dân trực tiếp tham gia hoạt động sản xuất và có thu nhập thường xuyên, thúc đẩy tiêu dùng…).
Đặc biệt, cảnh giới các nguy cơ: một quốc gia hai nền kinh tế, kinh tế vị kinh tế, tiền vì tiền, thực dụng chủ nghĩa, “đốt tiền” đổi lấy tăng trưởng, lợi ích nhóm, kinh tế cưỡng chế, kinh tế phi môi trường, kinh tế “ngầm” và mafia, “doanh nghiệp sân sau” của chính trị gia tha hóa, tiêu dùng phi đạo đức, băm nhỏ thể chế, rác thải công nghiệp; nhất là mâu thuẫn giữa các khu vực kinh tế… hệ luỵ lâm vào phản phát triển, nhất là nguy cơ thuộc địa số, nô lệ số, khủng hoảng cục bộ hoặc khủng hoảng tổng thể, thậm chí làm băng hoại nền kinh tế và đe doạ số phận quốc gia.
Kỷ nguyên mới đang đòi hỏi một tầm viễn kiến đặt trên niềm tin chiến lược về sự phát triển toàn diện, bền vững, bản sắc dân tộc, hiện đại hóa hội nhập quốc tế vận hành hợp quy luật và điều kiện đất nước tương dung với thế giới. Đó là nền móng hoạch định con đường phát triển nền kinh tế hùng mạnh và nhân văn Việt Nam.