Phát triển kinh tế nhà nước qua gần 40 năm Đổi mới và đề xuất, kiến nghị - Bài 2: Nên gọi doanh nghiệp nhà nước là thành phần kinh tế công

Để không nhầm lẫn với kinh tế nhà nước, có thể gọi doanh nghiệp nhà nước là thành phần kinh tế công. Đây là thành phần kinh tế giữ vị trí, vai trò then chốt trong nền kinh tế.
Các doanh nghiệp nhà nước tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu. Ảnh: Đ.T

Bài 2: Nên gọi doanh nghiệp nhà nước là thành phần kinh tế công

Để không nhầm lẫn với kinh tế nhà nước, có thể gọi doanh nghiệp nhà nước là thành phần kinh tế công. Đây là thành phần kinh tế giữ vị trí, vai trò then chốt trong nền kinh tế.

Tên gọi và chủ thể thành phần kinh tế công

Có thể gọi các doanh nghiệp nhà nước là thành phần kinh tế công để tránh nhầm lẫn với kinh tế nhà nước. Theo đó, chủ thể của thành phần kinh tế công là Nhà nước (được Nhân dân ủy quyền). Nhà nước đầu tư vốn (cả vốn bằng hiện vật và vốn bằng tiền) cho các doanh nghiệp nhà nước thông qua hợp đồng tín dụng. Ban lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước được giao quyền quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo cơ chế thị trường.

Các doanh nghiệp nhà nước tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không có khả năng hoặc không đầu tư. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước.

Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, mà Nhà nước thông qua những hợp đồng kinh tế để đặt hàng cho doanh nghiệp nhà nước sản xuất những hàng hóa có vai trò quan trọng đến quốc kế dân sinh, kể cả những hàng hóa quân sự, quốc phòng. Nhà nước chỉ đóng vai trò là “nhạc trưởng”, “bà đỡ”, quản lý vĩ mô nền kinh tế, chứ không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất - kinh doanh của mình...

Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực tiên tiến của quốc tế, thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường, nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp...

Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

Các thành phần kinh tế là các bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất đều bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Giữa các thành phần kinh tế có quan hệ tương hỗ với nhau, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau. Các thành phần kinh tế đều có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau và gần tương đương nhau; nhưng với các doanh nghiệp nhà nước “trong lĩnh vực quan trọng, then chốt, thiết yếu, tại địa bàn trọng yếu và quốc phòng, an ninh; phát triển những lĩnh vực, ngành nghề mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không có khả năng hoặc không đầu tư...”, thì thành phần kinh tế công giữ vị trí, vai trò then chốt, thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.

Kinh tế công cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế có tính tự chủ cao. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế cùng hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, bình đẳng trước pháp luật, cùng nhau huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội chung của đất nước với mục tiêu chung xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên CNXH.

Luận chứng và cơ sở đề xuất

Đề xuất kiến nghị trên được luận chứng dựa trên những cơ sở sau:

Khi xác định các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, cần phải xét tới “tính tương đương”, “đồng đẳng” giữa các thành phần kinh tế thì mới phù hợp với chủ trương: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”.

Như vậy, phải coi các thành phần kinh tế là những bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất đều có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và có quan hệ tương hỗ với nhau, bình đẳng với nhau, không nên đặt cho một bộ phận này có vai trò quan trọng hơn bộ phận khác.

Với ý nghĩa đó, cần phân chia thành phần kinh tế nhà nước hiện nay thành hai cấu phần: phi doanh nghiệp và doanh nghiệp.

Phần phi doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản quốc gia thuộc về sở hữu toàn dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu thì không thuộc thành phần kinh tế nào cả. Toàn bộ tài sản quốc gia thuộc về sở hữu toàn dân này thì Nhân dân giao quyền, ủy quyền cho Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước quản lý bằng pháp luật và sử dụng hiệu quả nhằm tạo ra những điều kiện vật chất - kỹ thuật, điều kiện tài chính..., tạo ra môi trường kinh tế - xã hội chung để các thành phần kinh tế đều phát triển bình đẳng.

Nhà nước không thuộc thành phần kinh tế nào cả, Nhà nước được Nhân dân ủy quyền, giao quyền quản lý, sử dụng có hiệu quả các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (như đất đai và các tài nguyên gắn với đất đai, vùng biển, đảo và các tài nguyên gắn với vùng biển, đảo, vùng trời và các tài nguyên gắn với vùng trời, ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác mà Nhà nước huy động được, các loại quỹ dự trữ...). Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân này, nếu các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế muốn sử dụng thì phải thực hiện theo cơ chế thị trường thông qua đấu giá, thông qua hợp đồng với cơ quan quản lý nhà nước một cách công khai, minh bạch, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Nhà nước thay mặt Nhân dân quản lý, sử dụng những tài sản thuộc sở hữu toàn dân, tạo ra những điều kiện mang tính chất nền tảng cho sự phát triển của các thành phần kinh tế và cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế để các thành phần kinh tế phát triển. Nhà nước được Nhân dân ủy quyền để thực hiện vai trò “người nhạc trưởng”, vai trò “bà đỡ” cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Vai trò kinh tế của Nhà nước là xây dựng, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý, tạo môi trường kinh tế, tạo môi trường xã hội, cung cấp các dịch vụ công, hàng hóa công, tạo “sân chơi” bình đẳng để các thành phần kinh tế phát triển. Nhà nước không “thiên vị”, không “nghiêng” về thành phần kinh tế nào cả. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế; sử dụng các công cụ, chính sách, nguồn lực của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế… Nhà nước tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh, thông thoáng, theo cơ chế thị trường để các thành phần kinh tế cùng huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Và vì vậy, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho các chủ sở hữu của mình, mà còn phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước và thực hiện trách nhiệm xã hội. Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân, được Nhân dân ủy quyền, thay mặt Nhân dân quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tài sản thuộc sở hữu toàn dân tạo các điều kiện nền tảng, định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển theo mục tiêu chung là phát triển kinh tế, xã hội đất nước nhanh, bền vững, toàn diện, sáng tạo, bao trùm, để đất nước vững bước đi lên CNXH.

Nhà nước với vai trò chủ thể có trách nhiệm tạo tất cả những điều kiện nền tảng cho phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, Nhà nước giữ vị trí quyết định, vai trò chủ đạo trong phát triển hệ thống kinh tế quốc dân, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Như vậy, thành phần kinh tế nhà nước chỉ còn lại phần doanh nghiệp nhà nước.

Có thể giữ nguyên tên là thành phần kinh tế nhà nước, nhưng chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, hay để cho không nhầm lẫn với thành phần kinh tế nhà nước theo quan niệm hiện nay (bao gồm cả hai cấu phần phi doanh nghiệp và doanh nghiệp), thì có thể gọi là thành phần kinh tế công (chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước). Thành phần kinh tế công này mới “tương đương”, mới “đồng đẳng” với các thành phần kinh tế khác.

Đối tượng sở hữu của các thành phần kinh tế chỉ bao hàm các tài sản hữu hình và vô hình đang được sử dụng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau và mang lại lợi ích kinh tế cho các chủ sở hữu, đồng thời góp phần vào lợi ích chung. Có như vậy, thành phần kinh tế công mới thực sự bình đẳng, tương đồng với các thành phần kinh tế khác theo nghĩa “mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”.

(Còn tiếp)

PGS-TS. Vũ Văn Phúc
Nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản/baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục