Rủi ro pháp lý của doanh nghiệp dược nhìn từ vụ án VN Pharma

(ĐTCK) Theo dự kiến, vào ngày 30/10 tới, tòa phúc thẩm sẽ tuyên án vụ VN Pharma. Kết quả có như thế nào thì những rủi ro pháp lý từ vụ án án này là điều mà các doanh nghiệp nhập khẩu dược cần hết sức lưu tâm.
Rủi ro pháp lý của doanh nghiệp dược nhìn từ  vụ án VN Pharma

Mong manh tội danh buôn lậu

Hội đồng xét xử phiên tòa phúc thẩm vụ án Buôn lậu thuốc chống ung thư do Công ty VN Pharma nhập khẩu đang nghỉ nghị án kéo dài. Theo thông báo, 8h sáng ngày 30/10/2017, tòa sẽ công bố bản án.

Nhiều chuyên gia pháp lý, luật sư cho rằng, cần hủy bản án sơ thẩm và điều tra lại vì còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ. Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cũng có quyết định kháng nghị nêu quan điểm hủy án, điều
tra lại.

Có thể thấy, có 2 sai phạm rõ ràng nhất trong vụ án này, đó là việc nâng khống giá thuốc và mạo danh quốc gia sản xuất. Tuy nhiên, trong quá trình xét xử, VN Pharma chỉ nhận tội danh nâng khống giá thuốc, còn việc mạo danh quốc gia sản xuất vẫn trong vòng tranh cãi.

Qua điều tra, xét xử, cơ quan tố tụng xác định rằng, VN Pharma đã buôn lậu lô thuốc chống ung thư gồm 9.300 hộp thuốc H-Capita 500mg Caplet (Capicitabine 500mg) do Công ty Helix Pharmaceuticals Canada sản xuất. Bị cáo Nguyễn Minh Hùng, nguyên Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc VN Pharma và nhiều cá nhân liên quan bị truy tố và đưa ra xét xử theo tội buôn lậu.

Thực tế, VN Pharma nhập khẩu thuốc qua cửa khẩu Sân bay Tân Sơn Nhất, mở tờ khai hải quan để làm thủ tục thông quan, trong khi tội danh buôn lậu đòi hỏi có yếu tố cấu thành là “buôn bán trái phép qua biên giới” hàng hóa, hàng cấm, ngoại tệ, đá quý... Do đó, nhiều luật sư cho rằng, việc xác định tội danh này là chưa chính xác.

Bản án phúc thẩm sẽ là bản án có hiệu lực thi hành ngay khi tuyên án. Nếu thực sự hành vi của các bị cáo và VN Pharma được xác định là buôn lậu, các doanh nghiệp nhập khẩu thuốc tân dược hẳn phải xem xét lại quy trình hoạt động hiện tại, cũng như rào chắn rủi ro để phòng ngừa nguy cơ bị quy kết tội buôn lậu. 

Vòng luẩn quẩn “thuốc giả hay kém chất lượng”?

Tâm điểm dư luận là việc xác định thuốc chống ung thư mà VN
Pharma nhập về có phải là thuốc giả hay không?

Nhiều chuyên gia y tế, bác sỹ, dược sỹ khẳng định rằng, đó là thuốc giả và viện dẫn quy định của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) để chứng minh điều này. Tuy nhiên, trong một vụ án hình sự, các quy định của pháp luật chuyên ngành và pháp luật hình sự mới là cơ sở pháp lý.

Theo quy định tại Khoản 24, Điều 2, Luật Dược 2005 về thuốc giả có hiệu lực tại thời điểm VN Pharma nhập khẩu lô thuốc nói trên thì: “Thuốc giả là sản phẩm được sản xuất dưới dạng thuốc với ý đồ lừa đảo, thuộc một trong những trường hợp sau: (1) thuốc không có dược chất; (2) có dược chất nhưng không đúng hàm lượng đã đăng ký; (3) có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn; (4) mạo tên, kiểu dáng công nghiệp của thuốc đã đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp của cơ sở sản xuất khác”.

Khoản 23 của điều này cũng quy định, thuốc kém chất lượng là thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền.

Bản giám định của Hội đồng giám định Bộ Y tế kết luận rằng: “Lô thuốc H-Capita 500mg Caplet nói trên chứa 97% hoạt chất Capicitabine 500mg là thuốc không rõ nguồn gốc, kém chất lượng, không được sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người”.

Tuy nhiên, kết luận giám định cũng không khẳng định đây có phải thuốc giả hay không, trong khi dư luận cho rằng, thuốc không dùng cho người thì là thuốc giả.

Ngoài ra, kết luận nêu “không được sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người” nhưng lại kèm theo khẳng định “kém chất lượng” khiến dư luận khó hiểu. Vấn đề khách quan, độc lập của Hội đồng giám định Bộ Y tế đã được Viện kiểm sát và các luật sư nêu ra, từ đó dẫn đến đề nghị phải giám định lại.

Cho đến nay, chưa có cơ quan nào kết luận thuốc H-Capita 500mg Caplet là thuốc giả. Bản án sơ thẩm cũng không xác định đây là thuốc giả. Vụ án sẽ dừng tại đây hay trở lại với giai đoạn điều tra và cơ quan điều tra có thể trưng cầu giám định của một cơ quan khác? Tất cả còn chờ vào phán quyết tới đây của tòa án.

Đáng nói hơn, hành vi giả mạo quốc gia sản xuất xảy ra khi Luật Dược 2005 đang có hiệu lực, nên không vi phạm quy định về thuốc giả.

Tuy nhiên, Luật Dược 2016 đã bổ sung thêm trường hợp “thuốc được sản xuất, trình bày, hoặc dán nhãn nhằm mạo danh nhà sản xuất, nước sản xuất hoặc nước xuất xứ là thuốc giả”.

Như vậy, VN Pharma cũng hoàn toàn có thể bị quy kết sản xuất, buôn bán thuốc giả.

Thực tế trên cho thấy, ranh giới “thuốc thật - thuốc giả - thuốc kém chất lượng” sẽ là những chỉ dấu đáng lưu ý đối với doanh nghiệp nhập khẩu thuốc tân dược. Bởi từ thuốc kém chất lượng đến thuốc giả là một khoảng cách rất lớn, quyết định việc bị xử lý hành chính hay hình sự.

Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định (Điều 157), tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh có khung hình phạt cao nhất lên tới tử hình trong trường hợp gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Trong vụ việc của VN Pharma, bên cạnh chất lượng thuốc, thì trách nhiệm của cơ quan quản lý là vấn đề dư luận hết sức quan tâm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, tòa án đã mời đại diện Bộ Y tế, Bộ Ngoại giao, Bộ Công thương và một số cá nhân của Cục Quản lý dược đến phiên tòa để làm rõ những vấn đề liên quan tới vụ án. Một số câu hỏi của Hội đồng xét xử chưa được trả lời và  các đại diện này đều xin trả lời bằng văn bản sau. Song, đại diện Cục Quản lý Dược thừa nhận có sai sót trong thẩm định hồ sơ.         

Tóm tắt diễn biến vụ án

Năm 2014, VN Pharma đã nhập lô hàng 9.300 hộp thuốc H-Capita 500mg Caplet (Capicitabine 500mg) do Công ty Helix Pharmaceuticals Canada sản xuất.

Đơn vị môi giới là Công ty TNHH Thương mại và hàng hải quốc tế H&C. Hồ sơ giấy tờ bao gồm Giấy chứng nhận bán hàng tự do FSC, Giấy chứng nhận thực hành tốt sản xuất thuốc GMP do Võ Mạnh Cường, Giám đốc Công ty H&C cung cấp cho VN Pharma.

Để làm hồ sơ cấp phép, VN Pharma thuê một dược sỹ viết hồ sơ kỹ thuật thuốc H-Capita 500mg Caplet và nộp cho Cục Quản lý dược nhằm xin cấp phép nhập khẩu và đăng ký lưu hành thuốc.

Trên cơ sở hồ sơ và kết quả thẩm định, Cục Quản lý dược đã cấp phép cho VN Pharma nhập khẩu lô thuốc nói trên qua nhà cung cấp là Công ty Austin Hồng Kông.

Khi lô hàng về tới kho, các cơ quan chức năng đã tiến hành thanh tra, kiểm tra, sau đó chuyển vụ việc tới cơ quan điều tra. Toàn bộ lô thuốc đã được niêm phong, chưa lưu hành trên thị trường.

Qua điều tra, xác định các giấy chứng nhận FSC và GMP của nhà sản xuất là giấy tờ giả, do Võ Mạnh Cường nhận từ một cá nhân người nước ngoài ở Philippines. Hồ sơ kỹ thuật thuốc được dược sỹ này viết dựa trên thành phần, công thức ghi trên giấy chứng nhận FSC và tham khảo dược điển của Mỹ. Hợp đồng với nhà cung cấp - Công ty Austin Hồng Kông - đã được ghi lùi ngày để hợp thức hồ sơ do giấy phép của công ty này đã hết hạn.

Với các vi phạm trên, các bị cáo đã bị truy tố tội buôn lậu, làm giả giấy tờ con dấu của cơ quan tổ chức và bị tuyên phạt mức án nặng nhất là 12 năm tù giam, nhẹ nhất là 1 năm 6 tháng án treo.

Tình tiết mới

Tại phiên tòa phúc thẩm, xuất hiện 2 chứng cứ mới.

Thứ nhất là việc Công ty Helix Canada được cấp phép hoạt động tại Việt Nam. Trước đó, qua xác minh cơ quan điều tra cho là công ty này không tồn tại ở Canada. Tuy nhiên, bị cáo Võ Mạnh Cường (Giám đốc Công ty H&C) trình tòa án Giấy phép số 28/BYT với nội dung Công ty Helix Pharmaceuticals đã được Bộ Y tế chấp thuận và đồng ý cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam. Bị cáo Cường có chứng nhận được Công ty Helix Canada ủy quyền hoạt động tại Việt Nam.

Thứ hai, bị cáo Phạm Văn Thông, dược sỹ được PV Pharma thuê viết hồ sơ kỹ thuật, đã nộp cho Hội đồng xét xử bộ tài liệu chứng minh lô thuốc
H-Capicitabine được sản xuất tại một nhà máy uy tín của Ấn Độ. Tài liệu gồm thư của tổng giám đốc công ty này, xác nhận của Bộ Y tế nước này đạt tiêu chuẩn thuốc, danh mục thuốc sản xuất và thuốc chuyển từ nhà máy này sang Singapore.

Bùi trang

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục