Cụ thể, theo báo cáo được Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng trình bày, về số lượng và hình thức tổ chức sản xuất, hiện nay, cả nước có khoảng hơn 49.600 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, chiếm 8% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước; nhưng các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất các sản phẩm nông, lâm, thủy sản chỉ chiếm khoảng 1% tổng số doanh nghiệp với số lượng 7.600 doanh nghiệp; còn lại là các doanh nghiệp trong chuỗi các ngành liên quan đến nông nghiệp như chế biến hàng; cung cấp nguyên liệu đầu vào, doanh nghiệp dịch vụ thương mại...
Về hình thức tổ chức sản xuất, việc cơ cấu lại sản xuất sản phẩm nông nghiệp diễn ra theo hướng chuyển dần từ hộ sản xuất sang hình thức hợp tác xã, doanh nghiệp, nhưng với tốc độ chuyển dịch còn khá chậm. Hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp chủ yếu hiện nay vẫn ở dạng hộ sản xuất với hơn 9,2 triệu hộ.
Xét về cơ cấu doanh nghiệp, khoảng 90% doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp là doanh nghiệp tư nhân;còn lại là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI. Gần 50% doanh nghiệp hoạt động trong ngành nông nghiệp; hơn 35% trong lĩnh vực khai thác, nuôi trồng thủy sản; và hơn 15% trong lĩnh vực lâm nghiệp.
Các doanh nghiệp nông nghiệp tập trung nhiều nhất ở đồng bằng sông Cửu Long với tỷ trọng là 25%, và ít nhất ở miền núi phía Bắc là 7%.Xét theo quy mô lao động, 96% các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp chủ yếu có quy mô nhỏ và siêu nhỏ.
Về nguồn vốn sản xuất kinh doanh, nguồn vốn của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 8% đến 10% tổng nguồn vốn của toàn khu vực doanh nghiệp. Trong đó, vốn của các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất chỉ chiếm khoảng 1%.
Liên quan tới hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong giai đoạn vừa qua, mặc dù doanh thu của doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp có xu hướng tăng nhẹ, chiếm 15-16% doanh thu của toàn bộ doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng lợi nhuận của các doanh nghiệp nhóm ngành trực tiếp sản xuất lại có xu hướng giảm.
“Nhìn chung, lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp trong ngành trực tiếp sản xuất nông nghiệp chỉ đạt 1,08 tỷ đồng, trong khi doanh nghiệp trong ngành chế biến sản phẩm nông nghiệp đạt 3,2 tỷ đồng lợi nhuận bình quân/năm. Bên cạnh đó, năng suất lao động ngành nông nghiệp của chúng ta còn hạn chế chỉ bằng khoảng 38% năng suất lao động bình quân chung cả nước và thấp hơn hầu hết các nước trong khu vực”, Bộ trưởng cho biết.
Người đứng đầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nêu 10 vấn đề khó khăn, vướng mắc và hạn chế nội tại của doanh nghiệp và cơ chế chính sách hiện hành.
Cụ thể, thứ nhất, doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận đất đai để tổ chức sản xuất. Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, đặc biệt là quy hoạch các vùng nguyên liệu chưa được triển khai hiệu quả, còn thiếu sự ổn định.
Tthứ hai, khó tiếp cận tín dụng; thuế và phí chưa hợp lý.Doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng, một phần do thiếu các quy định, hướng dẫn cụ thể về định giá tài sản trên đất nông nghiệp làm cơ sở xác định giá trị tài sản bảo đảm vay vốn ngân hàng.
Thứ ba, ngành công nghiệp cơ khí hỗ trợ cho nông nghiệp ở Việt Nam còn nhiều hạn chế về số lượng và chất lượng. Hiện nay, hầu hết máy móc thiết bị của doanh nghiệp đều phải nhập khẩu từ nước ngoài do ngành chế tạo máy phuc vụ nông nghiệp ở Việt Nam còn rất thô sơ, chưa đáp ứng nhu cầu thị trường.
Thứ tư, khó khăn về giống cây trồng, vật nuôi, Hầu hết các doanh nghiệp hiện nay phải nhập khẩu giống cây trồng, vật nuôi từ nước ngoài. Thứ năm, thị trường tiêu thụ không bền vững; chuỗi liên kết còn chưa chặt chẽ với các nhà phân phối bán lẻ lớn; chưa có tổ chức,cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp về phân tích, dự báo thị trường, khuyến nghị về sản lượng và giá bán.
Thứ sáu, nhân lực đa số trình độ thấp, tính tự do, manh mún cao; chưa được đào tạo về tiến bộ của công nghệ, kỹ thuật.
Thứ bảy, ưu đãi về đầu tư công nghệ trong nông nghiệp chưa đủ mạnh; còn nhiều rào cản đối với việc công nhận và đưa ra thị trường các sản phẩm công nghệ ứng dụng trong nông nghiệp; sản xuất đại trà còn chậm, mang tính nhỏ lẻ nên hiệu quả mang lại chưa cao.
Thứ tám, hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp như giao thông, thủy lợi, hạ tầng nuôi trồng thủy sản... chưa phát triển làm tăng chi phí cải cải tạo, chi phí vận chuyển, bảo quản hàng nông sản.
Thứ chín, nhiều thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh trong nông nghiệp còn bất hợp lý, chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển chưa được thực thi một cách nghiêm túc ở một số địa phương. Vấn đề chồng chéo trong quản lý, kiểm tra chuyên ngành vẫn chưa được giải quyết triệt để. Tình trạng một mặt hàng phải chịu sự kiểm tra của nhiều đơn vị khác nhau cùng thuộc Bộ đã và đang gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Thủ tục, thời gian kiểm tra chuyên ngành đối với nông sản xuất nhập khẩu còn bất hợp lý.
Thứ mười, còn nhiều hạn chế trong quản lý nhà nước và truyền thông về an toàn thực phẩm, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
6 giải pháp tháo gỡ
Để tháo gỡ những khó khăn này, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đưa ra đề xuất 6 giải pháp theo đó, tập trung đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh rà soát, chuẩn hóa các thủ tục hành chính và ban hành ở cấp Nghị định; nghiên cứu cắt giảm 40- 50% thủ tục hành chính hiện hành. không để tình trạng một mặt hàng phải chịu sự quản lý của quá nhiều đơn vị; chuyển đổi phương thức quản lý theo hướng tăng hậu kiểm, giảm tiền kiểm.
Thứ hai, về tư liệu sản xuất trong nông nghiệp:Nhanh chóng có giải pháp tạo quỹ đất, quy hoạch các vùng đất nông nghiệp, vùng nguyên liệu minh bạch, ổn định, thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, người nông dân và doanh nghiệp.
Thứ ba, phải thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại phục vụ sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp.
Thứ tư,cần từng bước chủ động được thị trường, xây dựng thương hiệu nông nghiệp Việt Nam.Cần khẩn trương đổi mới mô hình đại diện thương mại ở nước ngoài để xúc tiến nông sản Việt Nam đối với các thị trường lớn, trọng tâm như Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc...
Thứ năm, khẩn trương tổ chức hướng dẫn triển khai có hiệu quả các Nghị định Chính phủ mới ban hành về khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp... Bên cạnh đó, khẩn trương ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định số 55/2015 về chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp.
Thứ sáu, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong nông nghiệp Xây dựng và ban hành chính sách thu hút chuyên gia trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực nông nghiệp, kết nối với các doanh nghiệp nông nghiệp; thu hút người lao động có trình độ cao về hợp tác xã nông nghiệp.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng:
Doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp sẽ đảm nhận vai trò trung tâm, từ cung cấp vốn, ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực, cung cấp các dịch vụ đầu vào, tổ chức sản xuất - chế biến - bảo quản - đến tìm kiếm thị trường, xây dựng thương hiệu, tiêu thụ sản phẩm - tạo thành một chu trình khoa học, khép kín.
Cần xác định rõ giải pháp trước mắt và lâu dài để thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp cũng như những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Đặc biệt cần tính đến các giải pháp tổng thể về quy hoạch; phát triển kết cấu hạ tầng; khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực nông nghiệp; nâng cao năng lực dự báo, đổi mới công tác xúc tiến thương mại, phát triển thị trường.
Đồng thời cần có các giải pháp đảm bảo thực hiện trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật, những cam kết quốc tế; trách nhiệm bảo vệ môi trường; bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; thực hiện các chính sách xã hội, đặc biệt là bảo đảm lợi ích của người nông dân đã đóng góp đất đai cho doanh nghiệp.
Ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam:
5 gợi ý về “giải pháp” cho Chính phủ Việt Nam.
Thứ nhất, cần có một chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài rõ ràng và có mục tiêu cụ thể, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp và gia nhập thị trường; tạo niềm tin để nhà đầu tư duy trì và mở rộng hoạt động của mình; đồng thời hỗ trợ phát triển mối liên kết giữa các hoạt động đầu tư nước ngoài và khu vực tư nhân trong nước
Thứ hai, tăng khả năng tiếp cận tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách tín dụng nên chuyển từ hỗ trợ nông nghiệp trực tiếp sang cải thiện khả năng tiếp cận của nhà đầu tư tư nhân với các công cụ quản lý rủi ro mà thông qua đó tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng.
Thứ ba, tiếp tục tập trung nâng cao hiệu quả sử dụng đầu tư công. Các chính sách và đầu tư công có thể được thiết kế để hoàn thiện thể chế và cơ sở hạ tầng thị trường,
Thứ tư, là thúc đẩy liên kết thị trường theo hướng liên kết những nông dân nhỏ và doanh nghiệp nông nghiệp để phát triển các liên minh sản xuấtđể tăng cường chuỗi giá trị nông nghiệp.
Thứ năm, Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới trong việc hình thành cách thức tổ chức chuỗi giá trị nông nghiệp, tận dụng các cơ hội từ công nghệ mới để chuyển đổi ngành nông nghiệp, trở nên hiện đại hơn, hiệu quả hơn và bền vững hơn