Nhà nước, doanh nghiệp cần ưu tiên sản phẩm số Việt nam

Muốn hiện thực hóa mục tiêu top 3 ASEAN về chuyển đổi số, các doanh nghiệp Việt cần tiên phong tin dùng sản phẩm số trong nước, đồng thời Nhà nước cũng cần trao cơ hội nhiều hơn cho khu vực tư nhân.

Doanh nhân 8x Lê Đắc Lâm, Chủ tịch Vntrip, Phó Chủ tịch Đại học Đại Nam, là người trẻ nhất trong các diễn giả trình bày tham luận, tại phiên chuyên đề 4, với chủ đề "Vươn tầm nội lực" để "Vươn mình đột phá", trong khuôn khổ Diễn đàn kinh tế tư nhân Việt Nam (VPSF) 2025. Ngược lại, nhà khoa học, Tiến sỹ Nguyễn Thanh Mỹ (sinh năm 1956), Chủ tịch Rynan Technologies Vietnam, là người nhiều tuổi nhất. Song điểm chung là họ cùng mang tới những góc nhìn thực tế về chuyển đổi số, để quá trình này tại Việt Nam không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu.

Ưu tiên dùng sản phẩm số của doanh nghiệp Việt nam

Doanh nhân Lê Đắc Lâm, Chủ tịch Vntrip, Phó Chủ tịch Đại học Đại Nam cho biết Nghị quyết 68 đặt ra tầm nhìn đầy tham vọng, rằng đến năm 2030, khu vực tư nhân sẽ đóng góp 70% GDP và Việt Nam sẽ nằm trong nhóm ba quốc gia dẫn đầu ASEAN, năm quốc gia hàng đầu châu Á về chuyển đổi số.

Doanh nhân Lê Đắc Lâm, Chủ tịch Vntrip phát biểu tham luận tại phiên chuyên đề 4, Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2025.

Nhưng thực tế cho thấy, có những vấn đề đang cản trở Việt Nam đạt đến mục tiêu trên. Một trong số đó là việc chính các doanh nghiệp trong nước lại thiếu niềm tin vào sản phẩm số của nước mình, dẫn tới nghịch lý rằng nhiều doanh nghiệp sẵn sàng trả khoản tiền lớn cho sản phẩm ngoại, nhưng chưa sẵn sàng dùng giải pháp chuyển đổi số của doanh nghiệp nội.

Đại diện Vntrip lấy chính câu chuyện của doanh nghiệp mình làm ví dụ. Có một tập đoàn công nghệ hàng đầu Việt Nam, dùng dịch vụ du lịch của Vntrip, nhưng khi doanh nghiệp đề xuất cài đặt phần mềm quản lý đề quá trình đặt phòng của nhân viên được dễ hơn, phía tập đoàn đã từ chối. Lý do đưa ra là tập đoàn không muốn dùng công nghệ của bên khác. Trong khi đó, doanh nghiệp FDI như Unilever, Heineken, Carlsberg…lại đang sử dụng nhiều nhất.

“Nếu chính doanh nghiệp Việt không tin dùng sản phẩm trong nước, hệ sinh thái công nghệ Việt sẽ rất khó phát triển. Đó là một điều đáng buồn”, Lê Đắc Lâm nhấn mạnh.

Từ đó vị doanh nhân đề xuất giải pháp cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam, dùng sản phẩm số của Việt Nam. Chẳng hạn như, doanh nghiệp nếu chứng minh đã mua giải pháp số từ công ty Việt Nam sẽ được trừ chi phí đó khi tính thuế thu nhập. “Chính sách này vừa khuyến khích cầu nội địa, vừa giúp giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, đúng với tinh thần Nghị quyết 68”, đại diện VnTrip giải thích.

Ngoài ra, Việt Nam cũng cần cân nhắc phát triển cam kết “Buy Local First” (ưu tiên mua hàng nội, PV). Trong đó, các bộ ngành, doanh nghiệp Nhà nước, tập đoàn lớn cần dành ít nhất 20% ngân sách phần mềm cho sản phẩm Việt Nam.

Định kỳ, các Hội đoàn doanh nhân có thể công bố bảng xếp hạng “Doanh nghiệp tiên phong dùng sản phẩm Việt” để tạo áp lực xã hội và vinh danh người đi đầu.

“Đây là chìa khóa để khơi thông niềm tin, tạo thị trường đủ lớn cho startup và công ty công nghệ Việt vươn ra quốc tế. Khi chúng ta tin tưởng sử dụng sản phẩm công nghệ Việt Nam, thì mục tiêu top 3 ASEAN, top 5 châu Á sẽ không còn là giấc mơ, mà sẽ trở thành hiện thực”, Chủ tịch Vntrip Lê Đắc Lâm nhấn mạnh.

Trao cơ hội chuyển đổi số nông nghiệp cho doanh nghiệp

Nông nghiệp hiện chiếm gần 40% diện tích đất và hơn 30% lực lượng lao động, song chỉ đóng góp 11–12% GDP Việt Nam, thấp nhất trong cơ cấu kinh tế. Điều này phản ánh năng suất lao động còn thấp và mức độ ứng dụng khoa học – công nghệ hạn chế.

Theo TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch Rynan Technologies Vietnam, ngành nông nghiệp cần chuyển mạnh từ mô hình truyền thống sang nông nghiệp công nghệ cao và chuyển đổi số, đúng định hướng Quyết định 749/QĐ-TTg và Nghị quyết 57-NQ/TW.

TS. Nguyễn Thanh Mỹ, Chủ tịch Rynan Technologies Vietnam, phát biểu tham luận tại phiên chuyên đề 4.

Tuy vậy, chuyển đổi số trong nông nghiệp được vị tiến sĩ đánh giá là “rất khó”, bởi tính đặc thù cao, đòi hỏi hạ tầng đầu tư lớn, nhân lực trình độ cao và công nghệ xử lý dữ liệu phức tạp, do phải bao quát nhiều chuỗi giá trị nông sản và điều kiện tự nhiên đa dạng. Ngoài ra, hệ sinh thái nông nghiệp số còn liên quan nhiều bên: cơ quan quản lý, doanh nghiệp, nông dân, người tiêu dùng và giới nghiên cứu, mỗi bên có nhu cầu dữ liệu và cách thức khai thác khác nhau.

Từ kinh nghiệm thực tiễn khi phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường Đồng Tháp, phát triển thành công nền tảng chuyển đổi số nông nghiệp VDAPES, TS. Nguyễn Thanh Mỹ kiến nghị 3 đề xuất sau:

Thứ nhất, việc xây dựng nền tảng chuyển đổi số nông nghiệp nên theo mô hình phân tán, do Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh phối hợp với doanh nghiệp công nghệ số tư nhân triển khai, đồng thời vẫn bảo đảm tính đồng bộ toàn quốc và khả năng tích hợp với cơ sở dữ liệu quốc gia. Cách tiếp cận này vừa đáp ứng tiến độ, vừa phù hợp đặc thù từng vùng, hiệu quả hơn so với mô hình tập trung do Bộ NN&MT chủ trì (QĐ 1527/QĐ-BKHCN).

Thứ hai, hiện nay, quy trình đấu thầu chủ yếu do các công ty tư vấn đảm trách. Tuy nhiên, với các gói thầu chuyển đổi số nông nghiệp đòi hỏi công nghệ mới và tính phức tạp cao, các đơn vị này vừa thiếu năng lực thẩm định, vừa từng là mắt xích gây tiêu cực.

Do đó, cần thành lập Hội đồng tư vấn chuyên môn cấp tỉnh, gồm đại diện Nhà nước, chuyên gia viện–trường, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã, để thường xuyên đánh giá tính khả thi nền tảng số nông nghiệp, qua đó tăng cường tính minh bạch, ngăn ngừa lãng phí và bảo đảm tiến độ.

Thứ ba, theo Nghị quyết 68-NQ/TW, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng. Vì vậy, doanh nghiệp tư nhân cần được trao cơ hội dẫn dắt chuyển đổi số nông nghiệp ở cấp tỉnh. “Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các doanh nghiệp nhà nước vốn không có lợi thế về công nghệ số, nếu tiếp tục áp dụng mô hình tập trung sẽ khó bảo đảm tính hiệu quả, linh hoạt và phù hợp với thực tiễn từng địa phương”, vị tiến sỹ giải thích.

Nhung Bùi
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục