Oliver Hart sinh ra tại London (Anh), nhưng học tập, làm việc và hiện là công dân Mỹ. Ông là giáo sư kinh tế của Đại học Harvard. Trong khi đó, Bengt Holmstrom là công dân Phần Lan, nhưng hiện cũng cư trú lâu dài (permanent resident) tại Mỹ. Ông đang giảng dạy tại Học viện Công nghệ Massachusetts.
Đại diện Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển nhận xét nghiên cứu của hai nhà khoa học thoạt nghe có vẻ không thú vị. Tuy nhiên, nó lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thấu hiểu nền kinh tế hiện đại. Do hợp đồng là khái niệm quen thuộc với tất cả mọi người, như hợp đồng bảo hiểm, lao động, quyền sở hữu trí tuệ… Nghiên cứu của Hart và Holmstrom tập trung vào việc cân bằng nhu cầu của các bên tham gia vào hợp đồng - chia sẻ lợi ích tài chính giữa các bên. Đây là vấn đề giữa “rủi ro và động lực”.
Nghiên cứu nói trên có thể giúp trả lời cho các câu hỏi: Liệu các tổ chức cung cấp dịch vụ công, như trường học, bệnh viện hay nhà tù nên thuộc sở hữu công hay tư; Liệu giáo viên, nhân viên y tế và nhân viên nhà lao nên được trả lương cố định hay dựa vào thành quả công việc; hoặc Các lãnh đạo nên được trả lương bằng tiền thưởng hoặc quyền chọn cổ phiếu ở mức độ nào... Nhìn chung, nó sẽ là công cụ giúp đánh giá chính xác các hợp đồng, để xem liệu cá nhân, Chính phủ và các doanh nghiệp đang có một thương vụ tốt hay không.
Khi được hỏi qua điện thoại về cảm giác khi nhận được thông tin mình được trao giải Nobel Kinh tế, Tiến sĩ Bengt Holmstrom cho biết ông rất ngạc nhiên và hạnh phúc. Ông cũng cảm thấy may mắn và muốn bày tỏ sự biết ơn với các đồng nghiệp cũng như gia đình. Trả lời cho câu hỏi ông nghĩ thế nào về các khoản thưởng dành cho CEO của các công ty, và có nên thưởng lớn cho họ hay không, ông cho biết trong kinh tế không có tiêu chuẩn về thưởng cho lãnh đạo. Nhưng quan điểm của ông là ngày nay, vấn đề này quá phức tạp.
Oliver Hart thì cho biết ông nhận điện thoại thông báo lúc 4h40 sáng. Và phản ứng đầu tiên của ông là ôm vợ và đánh thức con trai để cho họ biết tin này.
Kinh tế thường là giải thưởng cuối cùng được trao trong mỗi mùa Nobel hàng năm, sau Nobel Y học, Hóa học, Vật lý, Văn học và Hòa bình. Nobel cho lĩnh vực kinh tế không thuộc cơ cấu giải thưởng ban đầu trong di chúc của nhà khoa học Thụy Điển - Alfred Nobel. Riêng giải dành cho kinh tế được bổ sung từ năm 1968, nhân kỷ niệm 300 năm thành lập Ngân hàng Trung ương Thụy Điển - Sveriges Riksbank, cũng là đơn vị đóng góp quỹ cho giải thưởng này.
Dù vậy, quy trình đề cử, chọn lọc và trao giải Nobel Kinh tế vẫn tương tự các lĩnh vực khác. Nhà khoa học giành Nobel Kinh tế sẽ được trao 8 triệu kronor Thụy Điển (tương đương 930.000 USD).
Năm ngoái, giải thưởng được trao cho nhà khoa học gốc Scotland kiêm giáo sư Đại học Princeton (Mỹ) - Angus Deaton. Nghiên cứu của ông bàn về mối quan hệ giữa tiêu dùng, nghèo đói và phúc lợi.
Trước đó, giới phân tích cũng đưa ra vài cái tên có thể được xướng lên năm nay. Đó là Olivier Blanchard (Pháp) - cựu kinh tế trưởng tại Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Edward Lazear - giáo sư Đại học Chicago, Marc Melitz - giáo sư Đại học Harvard và Paul Romer - kinh tế trưởng tại World Bank.
Danh sách những người từng đoạt giải Nobel Kinh tế các năm 2000 - 2015:
Năm |
Người đạt giải |
Công trình |
Quốc gia |
2015 |
Angus Deaton |
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tiêu dùng, nghèo đói và phúc lợi. |
Mỹ |
2014 |
Jean Tirole |
Cách thức quản lý các tập đoàn, công ty lớn trên thị trường. |
Pháp |
2013 |
Eugene F. Fama, Lars Peter Hansen, Robert J. Shiller |
Phân tích giá tài sản |
Mỹ |
2012 |
Alvivin E.Roth và Lloyd S.Shapley |
Lý thuyết phân phối ổn định và thực tiễn về tạo lập thị trường |
Mỹ |
2011 |
Thomas J. Sargent và Christopher A. Sims |
Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế vĩ mô và tác động của chúng lên nền kinh tế |
Mỹ |
2010 |
Peter A. Diamond, Dale T. Mortensen và Christopher A. Pissarides |
Công thức mới cho sự tương tác trên thị trường, giữa bên có hàng hóa, dịch vụ, việc làm... với bên đi tìm kiếm. |
Anh và Mỹ |
2009 |
Elinor Ostrom và Oliver E. Williamson |
Phương thức điều hành nền kinh tế |
Mỹ |
2008 |
Paul Krugman |
Tác động của lợi thế quy mô tới các mô hình thương mại và địa điểm diễn ra các hoạt động kinh tế |
Mỹ |
2007 |
Leonid Hurwicz, Eric S. Maskin và Roger B. Myerson |
Học thuyết phác thảo cơ chế |
Mỹ |
2006 |
Edmund S. Phelps |
Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp |
Mỹ |
2005 |
Robert J. Aumann và Thomas C. Schelling |
Xung đột và hợp tác thông qua phân tích "Lý thuyết trò chơi" |
Mỹ |
2004 |
Finn E. Kydland và Edward C. Prescott |
Sự thống nhất về thời gian của chính sách kinh tế và lực đẩy phía sau chu kỳ kinh doanh |
Na-uy và Mỹ |
2003 |
Robert F. Engle III và Clive W.J. Granger |
Phân tích số liệu kinh tế theo chuỗi thời gian ARCH và đồng hợp nhất |
Anh và Mỹ |
2002 |
Daniel Kahneman và Vernon L. Smith |
Ứng dụng tâm lý học vào kinh tế và Phân tích kinh tế thực nghiệm |
Mỹ |
2001 |
George A. Akerlof, A. Michael Spence và Joseph E. Stiglitz |
Phân tích thị trường với thông tin phi đối xứng |
Mỹ |
2000 |
James J. Heckman và Daniel L. McFadden |
Lý thuyết và phương pháp phân tích lựa chọn rời rạc |
Mỹ |