Ngành thủy sản Việt Nam: Cứ bước đi, cánh cửa sẽ mở ra

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Năm 2000, VASEP đã tổ chức lễ mừng sự kiện xuất khẩu thủy sản vượt mốc 1 tỷ USD. Sau 22 năm, chúng tôi lại mừng sự kiện xuất khẩu thủy sản cán mốc 10 tỷ USD - một con số mà năm 2008, các thành viên Tổ Tư vấn soạn thảo chiến lược xuất khẩu thủy sản đến năm 2025 không thể nghĩ tới.
Cá tra Việt Nam đã vượt qua rào cản thương mại để xuất khẩu thành công vào nhiều thị trường lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, châu Âu. Cá tra Việt Nam đã vượt qua rào cản thương mại để xuất khẩu thành công vào nhiều thị trường lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, châu Âu.

Những cột mốc đáng nhớ

Nhắc lại vài cột mốc quan trọng của ngành thủy sản để chúng ta cùng học những bài học cho chặng đường sắp tới.

Năm 1998, Liên minh châu Âu (EU) đã công nhận danh sách 18 doanh nghiệp chế biến thủy sản đầu tiên của Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu vào EU. Để đạt được sự công nhận này, thủy sản Việt Nam phải chứng minh được 3 điều kiện tương đương: tương đương với các quy định của EU về luật pháp (liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm); tương đương về năng lực của cơ quan thẩm quyền (NAFIQACEN thành lập tháng 8/1994, tiền thân của NAFIQAD) và sự đáp ứng các tiêu chuẩn về điều kiện sản xuất của các doanh nghiệp chế biến thủy sản.

Đó là những năm mà trong nội bộ ngành thủy sản đã có những thay đổi mạnh mẽ về tư duy, định hướng phát triển, đã chứng kiến tinh thần học hỏi và đổi mới không ngừng của các doanh nghiệp.

Có những ý kiến trong cơ quan Bộ Thủy sản bấy giờ (sau này sáp nhập vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), “Nhật Bản là thị trường chiếm 95% thị phần xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, việc gì phải đáp ứng tiêu chuẩn châu Âu, việc gì phải đến những thị trường xa như Mỹ”. Về phía doanh nghiệp thủy sản, họ nhiều lần đặt ra câu hỏi với cơ quan quản lý: Để đạt tiêu chuẩn EU về điều kiện sản xuất, doanh nghiệp phải đầu tư cải tạo nhà xưởng, tổ chức lại hệ thống quản lý, liệu rồi Bộ Thủy sản có đảm bảo rằng doanh nghiệp sẽ có thị trường không?

Sau quá trình chuyển đổi của các doanh nghiệp, việc lựa chọn để chính thức gửi danh sách doanh nghiệp đề nghị EU công nhận là một việc hết sức căng não với Bộ Thủy sản. Đã có một số doanh nghiệp cải tạo nhà xưởng theo tiêu chuẩn về điều kiện sản xuất, nhưng không thể đưa tất cả vào danh sách đề nghị đầu tiên. Danh sách đề nghị đầu tiên của một nước châu Á chỉ có 5 doanh nghiệp. Nên đề nghị bao nhiêu doanh nghiệp để EU có thể chấp nhận, đầu cho xuôi rồi tính tiếp? Tiêu chí nào để chọn doanh nghiệp vào danh sách này? Thật là một cuộc ném đá dò đường.

Sau nhiều cuộc thảo luận, ngoài các tiêu chí EU yêu cầu, Bộ thống nhất thêm một tiêu chí: Sau khi xuất khẩu vào EU, những doanh nghiệp không bị phát hiện vi phạm quy định về an toàn thực phẩm hoặc đã xử lý tốt các vi phạm và có báo cáo kết quả. Con số đã dừng lại là 15 doanh nghiệp chế biến. Để tăng số lượng, Bộ đã đưa thêm 3 doanh nghiệp sản xuất nước mắm, là những doanh nghiệp ít gặp rủi ro về an toàn vệ sinh thực phẩm nhất.

Rút kinh nghiệm các nước (đã có những cuộc biểu tình của doanh nghiệp sau khi công bố danh sách đầu tiên đề nghị EU công nhận), Bộ đã báo cáo và đã nhận được sự đồng tình của Chính phủ, các bộ liên quan về các tiêu chí chọn lựa. Nhưng áp lực vẫn rất lớn, các cuộc điện thoại không ngớt chất vấn, vì sao không có doanh nghiệp nhà nước mà cho doanh nghiệp tư nhân vào danh sách, vì sao doanh nghiệp nhỏ xíu không bằng nhà để xe của chúng tôi được vào?

Mệt mỏi vì phản ứng từ địa phương, trong Bộ đã có ý kiến cứ đưa vào danh sách những doanh nghiệp lớn hoặc doanh nghiệp nhà nước. Rất may là nhờ kiên định giữ những tiêu chí đã đưa ra, rồi quyết sách của Chính phủ về cân bằng lợi ích thương mại giữa hai bên mà sau đó, EU đã công nhận danh sách này.

Kết quả của việc vào được thị trường châu Âu đã trở thành một cổng thoát cho thủy sản Việt Nam khi Nhật và các nước châu Á bị thiệt hại nặng nề do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1998. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 1998 của Việt Nam đạt 817 triệu USD, tăng 5% so năm 1997; năm 1999 đạt 917 triệu USD, tăng 19%.

Vào được thị trường EU cũng mở lối thoát cho cá tra Việt Nam khi năm 2002, Mỹ công bố việc áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm này. Cá tra có cơ hội bứt lên do sự thiếu hụt lớn cá thịt trắng tại thị trường EU.

Sự công nhận của EU là khởi đầu vô cùng thuận lợi để thủy sản Việt Nam lần lượt được cơ quan thẩm quyền các thị trường Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc công nhận.

Có ý kiến cho rằng ngành thủy sản Việt Nam may mắn khi được dự án SEAQIP của Đan Mạch hỗ trợ trong 10 năm liên tiếp. Điều này hoàn toàn chính xác.

Không như những dự án quốc tế khác - chỉ đơn thuần hỗ trợ kỹ thuật, SEAQIP mang đến một gói hỗ trợ tổng thể, bao gồm hỗ trợ kỹ thuật (đào tạo HACCP, tiêu chuẩn về điều kiện sản xuất…), hỗ trợ tăng cường năng lực thể chế (xây dựng năng lực cho cơ quan thẩm quyền NAFIQACEN, hỗ trợ thành lập Hiệp hội VASEP), hỗ trợ tiếp cận thị trường (hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các hội chợ thủy sản quốc tế lớn nhất thế giới, giới thiệu kết nối với các nhà mua quốc tế).

Nhưng dự án không thể thành công nếu thiếu đi tinh thần học hỏi, đổi mới không ngừng của cộng đồng doanh nghiệp thủy sản, thiếu đi sự kịp thời, phối hợp, đồng hành của Bộ Thủy sản, Chính phủ.

Năm 1998 cũng là năm thành lập VASEP trong điều kiện chưa có văn bản pháp lý đầy đủ về lập Hội, không có cơ quan nhà nước nào chịu trách nhiệm về việc lập Hội. Đã có nhiều công sức, kể cả đấu trí, đấu lý tìm đường vượt qua rào cản hành chính, rào cản nhận thức về vai trò hiệp hội doanh nghiệp ở các cấp tham mưu để cuối cùng, Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho phép thành lập VASEP.

Kể từ đó, VASEP trở thành tổ chức phi chính phủ đầu tiên trong ngành hàng thực phẩm, kết nối và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường, xây dựng quan hệ hợp tác quốc tế, phản biện chính sách, đóng góp tích cực vào quá trình hội nhập của ngành công nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam.

Chung tinh thần: Không bỏ cuộc

Để hội nhập quốc tế rất sớm, trở thành một ngành công nghiệp mạnh của đất nước, chúng tôi đã chứng kiến một tinh thần học hỏi mạnh mẽ. Những lớp học do dự án SEAQIP tổ chức về quy định điều kiện sản xuất của EU, về HACCP, hay về đổi mới kỹ năng quản lý, về thị trường luôn không đủ chỗ ngồi vì số doanh nghiệp xin tham gia ngoài danh sách dự kiến.

Ảnh tác giả

Vào những năm 90 của thế kỷ trước, với cơ quan quản lý nhà nước cũng như các doanh nghiệp thủy sản, các tiêu chuẩn như HACCP, yêu cầu về điều kiện sản xuất của EU, thuế chống bán phá giá của Mỹ thật sự là những khái niệm rất xa lạ, nhưng cứ bước đi thì cánh cửa sẽ mở ra.

TS. Nguyễn Thị Hồng Minh, Nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy sản, Chủ tịch danh dự VASEP

Chúng tôi cũng chứng kiến sự đầu tư cải tạo nhà xưởng, cải cách quản lý theo nguyên tắc của HACCP tại nhiều doanh nghiệp. Sau khi chính thức vào được EU thì mới biết tiêu chuẩn về điều kiện sản xuất EU chỉ là nền tảng căn bản.

Doanh nghiệp thủy sản gần như thường xuyên đối mặt và vượt qua những rào cản kỹ thuật khác của các tổ chức phi chính phủ như BAP, ASC và phải đáp ứng các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội ngặt nghèo hơn như CSR, ESG tích hợp các yêu cầu môi trường - xã hội- quản trị để được chấp nhận vào được các chuỗi siêu thị lớn.

Riêng về cá tra, để ngăn cản cạnh tranh với cá catfish, phía Mỹ đã lần lượt đưa ra rất nhiều rào cản thương mại và kỹ thuật từ thấp đến tinh vi. Khi áp thuế chống bán phá giá không ngăn cản được, Mỹ đã chuyển quản lý cá tra từ FDA sang Bộ Nông nghiệp Mỹ để áp riêng cho ngành sản xuất cá tra, không có khả năng lây bệnh cho con người, các tiêu chuẩn vốn trước nay sử dụng cho các vật nuôi trên cạn có thể lây bệnh cho người.

Nhưng kết quả là chúng ta đã vượt qua tất cả. Từ một doanh nghiệp, đến nay đã có nhiều doanh nghiệp hưởng thuế suất bán phá giá bằng 0. Cá tra tiếp tục gia tăng xuất khẩu vào Mỹ, đồng thời cũng mở ra thành công tại nhiều thị trường lớn khác như Trung Quốc, Nhật Bản, các nước châu Âu, Trung Đông…

Một thành viên của Bộ Thương mại Mỹ đã bày tỏ sự khâm phục tinh thần sẵn sàng đương đầu của doanh nghiệp Việt Nam trước các vụ kiện chống bán phá giá, bởi có một số nước đã không dám đương đầu, rời bỏ hẳn thị trường Mỹ khi bị áp thuế chống bán phá giá.

Vào những năm 90 của thế kỷ trước, với cơ quan quản lý nhà nước cũng như các doanh nghiệp thủy sản, các tiêu chuẩn như HACCP, yêu cầu về điều kiện sản xuất của EU, thuế chống bán phá giá của Mỹ thật sự là những khái niệm rất xa lạ, nhưng cứ bước đi thì cánh cửa sẽ mở ra.

Tất cả đã chung một tinh thần: Không bỏ cuộc - Tinh thần Việt Nam!

Hiện nay, biến đổi khí hậu toàn cầu đang đặt ra yêu cầu cấp bách của việc bảo vệ môi trường. Các nước EU một lần nữa đi tiên phong trong vấn đề tiêu chuẩn. Năm 2019, EU đã khởi động chiến dịch Thỏa thuận Xanh châu Âu (EGD).

Trong các quy định cốt lõi, nổi bật lên là chiến lược “Farm to Fork” - F2F (hệ thống thực phẩm công bằng, lành mạnh và thân thiện với môi trường). F2F hướng đến mục tiêu năm 2030 giảm 50% sử dụng thuốc trừ sâu hóa học, giảm 50% doanh số bán thuốc kháng sinh cho động vật, giảm sử dụng phân bón ít nhất 20%; 25% diện tích đất nông nghiệp là chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ… EU sẽ tiến đến yêu cầu các nước khác thực hiện tương tự, nếu không sẽ đánh thuế môi trường.

Thay vì chờ để họ áp đặt, VASEP nên chủ động xây dựng một cộng đồng doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chuẩn thân thiện môi trường phù hợp đặc điểm của ngành sản xuất, thể hiện qua dấu hiệu chung là nhãn xanh, kiểm soát và chứng nhận cho hội viên đạt tiêu chuẩn, phối hợp và chia sẻ trên nền tảng quy tắc ứng xử chung, xây dựng quỹ phát triển thị trường, triển khai chương trình

marketing - truyền thông đến đối tượng tiêu dùng thích hợp. Đây sẽ là cơ hội để Việt Nam xây dựng cộng đồng sản xuất thực phẩm xanh nói chung, ngành thủy sản nói riêng thực sự có nội lực để bứt phá, vượt qua mọi thách thức, vươn tới những tầm cao mới.

TS. Nguyễn Thị Hồng Minh
Nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy sản, Chủ tịch danh dự VASEP

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục