Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện nghiên cứu Phát triển kinh doanh (BDI), vấn đề quản trị rủi ro đã được các chuyên gia trong nước và quốc tế cảnh báo từ rất lâu, thậm chí, có nhiều dự án hỗ trợ kỹ thuật để cải thiện hệ thống quản trị rủi ro tại các ngân hàng, nhưng kết quả chưa cao.
Một trong những nguyên nhân, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, do đặc thù của hoạt động ngân hàng Việt Nam là trên 70% thu nhập đến từ tín dụng, có ngân hàng có tỷ lệ này tới hơn 90%, nên hầu hết các ngân hàng chỉ chủ yếu chú trọng rủi ro tín dụng. Việc xem nhẹ công tác quản trị các loại rủi ro khác dẫn đến hệ quả là, khi thị trường tài chính - tiền tệ biến động, khó khăn, một loạt ngân hàng rơi vào rủi ro mất thanh khoản.
“Ít ngân hàng Việt Nam có được hệ thống quản trị rủi ro tốt”, TS. Lê Xuân Nghĩa cho biết.
Trên thực tế, rủi ro ngân hàng khá đa dạng, với 3 loại rủi ro chính là rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động, trong đó, rủi ro hoạt động gồm có: rủi ro pháp lý, rủi ro tuân thủ, rủi ro hệ thống, rủi ro công nghệ thông tin, rủi ro về tài sản, rủi ro về con người…
Tại Việt Nam, một trong những hệ thống quản trị rủi ro được một số ngân hàng áp dụng thành công và được các chuyên gia quốc tế khuyến nghị áp dụng rộng rãi là mô hình 3 tuyến phòng thủ và quản trị rủi ro toàn ngân hàng.
Ông Anil Kuma Parimoo, Giám đốc khối quản trị rủi ro của Techcombank cho biết, ưu việt của mô hình 3 tuyến phòng thủ và quản trị rủi ro toàn ngân hàng là tất cả thành viên trong hệ thống đều phải tham gia quá trình quản trị rủi ro. Do vậy, mô hình này đảm bảo mọi rủi ro trong mỗi tác vụ của ngân hàng được nhận diện, kiểm soát và giảm thiểu.
Theo chia sẻ của ông Anil, Techcombank đã xây dựng mô hình 3 tuyến phòng thủ. Trong đó, tuyến phòng thủ thứ nhất là các khối kinh doanh, bán hàng, các chuyên viên khách hàng, chi nhánh, các đơn vị vận hành tại hội sở... Nhiệm vụ chính của các đơn vị này là xác định, đánh giá, ngăn ngừa, báo cáo và theo dõi các rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh (cho vay) và các quy trình vận hành khác; bảo vệ lợi ích của đơn vị thông qua việc tự đánh giá rủi ro và kiểm soát tính hiệu quả của từng đơn vị.
Tuyến phòng thủ thứ hai là khối quản trị rủi ro, khối tuân thủ, quản trị rủi ro hoạt động và pháp chế. Tuyến này có rất nhiều nhiệm vụ, trong đó quan trọng hơn cả là việc độc lập đánh giá và kiểm soát (kiểm tra và cân đối) tính hiệu quả của hệ thống ở tuyến phòng thủ thứ nhất; quản lý rủi ro chính thông qua việc thiết lập khẩu vị rủi ro/chính sách cho vay, xây dựng quy trình/hướng dẫn tín dụng và cho vay, theo dõi, cảnh báo sớm, quản trị danh mục…; giám sát các chương trình kiểm soát nội bộ, tuân thủ…
Tuyến phòng thủ thứ ba là bộ phận kiểm toán nội bộ. Đây là bộ phận trực thuộc Ban kiểm soát và không thuộc Ban điều hành của Ngân hàng, nên việc đánh giá 2 tuyến phòng thủ trước và các rủi ro có thể xảy ra được thực hiện độc lập và khách quan.
Mô hình phòng thủ trên, nói thì rất đơn giản, nhưng theo các chuyên gia, để vận hành thành công, đòi hỏi phải đầu tư rất lớn cả về tiền bạc lẫn thời gian. Điều quan trọng là, để thực hiện thành công, đòi hỏi phải có sự tuân thủ đầu tiên từ lãnh đạo ngân hàng, bởi không ít người ngại những “quy định rối rắm” trong quản trị rủi ro làm cản ngân hàng chớp những cơ hội kinh doanh tốt.
Đánh giá về hệ thống quản trị rủi ro hoạt động tại Techcombank, ông Anil cho biết, kết quả quan trọng sau một thời gian tuân thủ nghiêm ngặt mô hình quản trị phòng thủ 3 lớp tại Ngân hàng là các chuẩn mực an toàn đã được tuân thủ và dần tiệm cận các chuẩn mực quản trị tiên tiến trên thế giới, đặc biệt, tạo nên văn hóa ý thức và kiểm soát rủi ro trong mỗi nhân viên của ngân hàng. Mỗi cá nhân, từ chuyên viên khách hàng tới nhân viên các khối hỗ trợ, đều phải tuân thủ quy định, quy trình và ý thức được trách nhiệm đánh giá, phát hiện sớm rủi ro và tìm cách ngăn ngừa các rủi ro phát sinh. Tức là, quản trị rủi ro được thực hiện bởi cả hệ thống, chứ không phải là trách nhiệm riêng của khối quản trị rủi ro.