
Tháng 5 này đánh dấu 61 năm ngày truyền thống ngành ngân hàng (6/5/1951 - 6/5/2012). Hơn 60 năm qua, toàn ngành đã nỗ lực vượt qua không ít thử thách để lập nên những kỳ tích, góp phần quan trọng vào thành công của các cuộc kháng chiến của dân tộc, cũng như sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Trên chặng đường phát triển đó, có không ít thăng trầm, nhưng sau mỗi khúc cua, ngành ngân hàng lại trưởng thành hơn và có những bước phát triển vượt bậc. Trong bối cảnh thực hiện Chiến lược tái cấu trúc ngành ngân hàng hiện nay, những khó khăn đang song hành với kỳ vọng về một diện mạo mới cho ngành ngân hàng Việt
Những dấu ấn thay đổi
Hơn 20 năm chuyển động theo định hướng thị trường cũng là giai đoạn của những bước chuyển mình, những quyết sách mang tính đột phá của ngành ngân hàng. Dấu ấn đầu tiên đó là thực hiện tinh thần Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng, cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất (từ 1987 đến 1990) được thực hiện. Hệ thống ngân hàng Việt
Tiếp theo đó là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngân hàng được hình thành. Luật NHNN và Luật Các tổ chức tín dụng ra đời, thừa nhận nhiều loại hình sở hữu ngân hàng, giúp bộ mặt ngành ngân hàng thay đổi lớn với sự bùng nổ về số lượng ngân hàng.
Đến năm 1997, số lượng ngân hàng ở Việt Nam đã lên đến 84 đơn vị, trong đó có 5 ngân hàng thương mại quốc doanh, 51 ngân hàng thương mại cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh và 24 chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài. Người dân và doanh nghiệp đã có nhiều hơn sự lựa chọn ngân hàng phục vụ.
Tuy nhiên, sự đua tranh trong thời điểm ban đầu cũng tạo ra nhiều hệ lụy. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời một đề án tái cấu trúc các ngân hàng cổ phần cuối thế kỷ trước. Với đề án này, khoảng 10 ngân hàng phải chấp nhận các biện pháp xử lý của NHNN như sáp nhập, hợp nhất, khiến số lượng ngân hàng thương mại cổ phần giảm chỉ còn 39 đơn vị vào năm 2001.
Giai đoạn “tuần trăng mật” tiếp theo của các ngân hàng Việt
Hơn 20 năm và hai cuộc tái cấu trúc lớn là chưa đủ để nói về sự chuyển động của hệ thống ngân hàng Việt
Sự hiện diện của khối ngân hàng ngoại từ các hình thức như văn phòng đại diện, chi nhánh, ngân hàng liên doanh và mới đây nhất là ngân hàng con 100% vốn nước ngoài hiện chỉ giúp khối này chiếm khoảng 10% thị phần trên thị trường ngân hàng Việt Nam. Nhưng con số này chắc chắn sẽ thay đổi, lịch sử hàng trăm năm của các ngân hàng khu vực và toàn cầu cho thấy, chưa có thị trường mới nổi nào mà khối ngân hàng ngoại không giữ một vị trí quan trọng.
Tạo sự chuyển đổi về chất
Tạo sự chuyển đổi về chất là yêu cầu có tính “mệnh lệnh” trong Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011- 2015”.
Mục tiêu của quá trình này cũng được chỉ rõ là cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống tổ chức tín dụng để đến năm 2020 phát triển được hệ thống các tổ chức tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả, với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình. Đồng thời, có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến, phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng; cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức này; nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng. Phấn đấu đến cuối năm 2015, hình thành ít nhất 1 - 2 ngân hàng thương mại có quy mô và trình độ tương đương với các ngân hàng trong khu vực.
Yêu cầu thay đổi về chất đối với hoạt động của các ngân hàng là điều dễ hiểu, bởi trong hơn 10 năm qua, tại Việt Nam đã xuất hiện khoảng 100 tổ chức tín dụng cả trong và ngoài nước. Số lượng ngân hàng tăng mạnh và mạng lưới mở rộng trên toàn quốc, nhưng mới chỉ giúp được 20% dân số tiếp cận được dịch vụ ngân hàng, tập trung chủ yếu ở khu vực đô thị. Thực trạng này tạo ra tình trạng “overbanked” tại những đô thị lớn với hệ lụy là cạnh tranh khốc liệt trong cả cho vay lẫn huy động. Một số ngân hàng yếu kém đã tỏ ra đuối sức, mất thanh khoản và phải trả giá cao với việc mất vốn do tăng trưởng nóng và nợ xấu cao.
Đã có những kết quả ban đầu của việc tái cấu trúc, đó là trường hợp hợp nhất của 3 ngân hàng Ficombank, TinNghiaBank và SCB, tới đây sẽ là Habubank sáp nhập với SHB. Tất nhiên, việc hợp nhất hay sáp nhập mới chỉ là bước đầu của quá trình tái cơ cấu, bởi để nâng chất lượng của các ngân hàng sau sáp nhập, vẫn là một chặng đường dài với rất nhiều việc phải làm.
Hướng tới một chuẩn mực quốc tế
Rất nhiều ngân hàng đang đặt ra cho mình mục tiêu vươn tới tầm khu vực và dần tiệm cận với chuẩn mực tiên tiến quốc tế. Điều này được hiểu theo hai góc độ, thứ nhất là chuẩn mực hoạt động của các ngân hàng Việt
Tất nhiên, nếu tất cả các ngân hàng Việt thành công với mục tiêu trên thì đề án tái cấu trúc có thể sẽ thành công rất sớm, ngành ngân hàng Việt Nam sẽ được nhắc tới trên bản đồ tài chính thế giới bởi sự tập hợp của những ngân hàng chất lượng cao.
Nhưng để giấc mơ này sớm trở thành hiện thực thì còn quá nhiều điều phải làm. Bài học cho các ngân hàng vừa qua chính là phải sớm nâng cao hơn nữa các chuẩn mực quản trị rủi ro. Có thể NHNN sẽ sớm đưa ra các chuẩn mực mới và đòi hỏi sự tuân thủ, nhưng điều quan trọng hơn là các ngân hàng phải tự nguyện thực hiện một cách nghiêm túc vì chính bản thân ngân hàng.
Các ngân hàng đã đón nhiều đối tác chiến lược nước ngoài, mới đây là sự xuất hiện của một số tổng giám đốc nước ngoài, còn trước đó là một số nhà tư vấn chiến lược nước ngoài như McKinsey tư vấn tái cấu trúc cho khá nhiều ngân hàng nội. Những nhân tố mới này, cộng với áp lực lớn dần từ khối ngân hàng nước ngoài, chắc chắn sẽ tạo một sự thay đổi đáng kể về chất trong quản trị, thiết kế sản phẩm, chiến lược thị trường… cho các ngân hàng Việt Nam.
Trên thế giới, rất ít quốc gia có thể “sản xuất” ra ngân hàng cấp độ toàn cầu như HSBC hay Citibank, không nhiều quốc gia có ngân hàng tầm khu vực. Các ngân hàng Việt