Nhiều ngân hàng nợ xấu giảm trong quý IV/2021
Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, tỷ lệ nợ xấu nội bảng năm 2021 là 1,9%, tăng so với mức 1,69% của 2020, song nếu tính cả các khoản nợ xấu đã bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) nhưng chưa xử lý và nợ xấu tiềm ẩn thì tỷ lệ này lên tới 3,79%. Ngoài ra, thời gian qua, các ngân hàng cũng đã thực hiện tái cơ cấu nhiều khoản nợ cho các khách hàng bị ảnh hưởng dịch, nên cộng thêm các khoản nợ được cơ cấu lại theo các Thông 01, Thông tư 03, Thông tư 14, tỷ lệ nợ xấu có thể ở mức 8,2%.
Bên cạnh đó, các chuyên gia phân tích của Công ty Chứng khoán SSI cũng lưu ý rằng, cần theo dõi một mốc thời gian quan trọng là thời hạn cơ cấu nợ xấu chỉ kéo dài đến ngày 30/6/2022, tức là sau thời hạn này, các ngân hàng sẽ phải công bố nợ xấu thực tế do không còn đợt giãn nợ nào khác.
Tuy nhiên, lãnh đạo các nhà băng cho biết, không quá bi quan về các khoản nợ tái cơ cấu, bởi nhiều khoản đã được khách hàng tất toán sau khi các hoạt động kinh tế được mở cửa trở lại, sức khỏe doanh nghiệp hồi phục. Ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc OCB (mã OCB) cho hay, lượng hồ sơ xin tái cơ cấu nợ của Ngân hàng bắt đầu giảm từ tháng 10/2021 và có nhiều khách hàng đã xong nợ từ cuối năm 2021, cho dù được tái cơ cấu đến tháng 6/2022.
“Nợ cơ cấu do ảnh hưởng dịch của OCB vẫn trong tầm kiểm soát, hiện chỉ chiếm khoảng 2% trên tổng dư nợ”, ông Tùng thông tin.
Thực tế, nợ xấu của nhiều ngân hàng không những không tăng, mà còn giảm trong quý IV/2021. Đây là số liệu của nợ được cơ cấu. Chẳng hạn, tại VietinBank (mã CTG), kết thúc năm 2021, dư nợ bình quân tăng 12,3% so với năm 2020, tương đương 1,14 triệu tỷ đồng. Tính đến đến cuối quý IV/2021, tỷ lệ nợ xấu ở mức 1,3%, giảm mạnh so với mức 1,67% tại thời điểm cuối quý trước đó, tương đương số dư nợ xấu vào khoảng 14.800 tỷ đồng.
Tương tự, tỷ lệ nợ xấu của BIDV (mã BID) tại thời điểm cuối quý IV/2021 là 0,81%, cũng giảm mạnh so với mức 1,39% cuối quý liền trước và mức 1,64% của cùng kỳ năm 2020. Trong đó, nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) ở mức 0,42%, giảm 0,82 điểm phần trăm so với năm 2020. Với dư nợ tín dụng tăng 11,8% lên 1,33 triệu tỷ đồng tại thời điểm cuối quý IV/2021, có thể tính được số dư nợ xấu ngân hàng này vào khoảng 10.800 tỷ đồng, giảm gần một nửa so cuối quý III/2021 cũng như cùng kỳ năm 2020.
Chủ tịch HĐQT Vietcombank (mã VCB) Phạm Quang Dũng cho biết, tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng tính đến cuối năm 2021 được kiểm soát ở mức 0,63%, tăng nhẹ 0,01 điểm phần trăm so với đầu năm, nhưng giảm gần một nửa so với cuối quý III. Với dư nợ tín dụng cùng thời điểm ở mức 963.670 tỷ đồng, ước tính quy mô nợ xấu của Vietcombank vào khoảng 6.100 tỷ đồng, tức giảm khoảng 4.800 tỷ đồng chỉ trong quý IV/2021.
Như vậy, tại thời điểm cuối quý IV/2021, dư nợ xấu của 3 ngân hàng có vốn nhà nước chi phối nói trên là khoảng 31.700 tỷ đồng, giảm hơn 18.700 tỷ đồng so với cuối quý III/2021 và giảm hơn 4.400 tỷ đồng so với 2020.
Vẫn chủ động tăng bộ đệm dự phòng
Nợ xấu tăng trong bối cảnh dịch bệnh còn diễn biến phức tạp là một thách thức lớn của ngành ngân hàng trong năm 2022. Bởi vậy, các ngân hàng đã chủ động kiểm soát rủi ro này bằng cách tăng “bộ đệm” trích lập dự phòng. Đây cũng là cách đảm bảo rủi ro sau thời hạn 30/6/2022 phải đưa nợ xấu về đúng thực chất.
Cụ thể, tại Vietcombank, mới đây, chủ tịch ngân hàng này gây chú ý khi công bố tỷ lệ bao phủ nợ xấu nội bảng (LLR) ở mức 424% - cao kỷ lục ngành ngân hàng. Điều này đồng nghĩa, mỗi đồng nợ xấu nội bảng của Vietcombank được đảm bảo bằng hơn 4 đồng dự phòng.
Với dư nợ tín dụng và tỷ lệ nợ xấu vào cuối năm 2021 tương ứng là 963.670 tỷ đồng và 0,63%, quy mô nợ xấu nội bảng và quỹ dự phòng của Vietcombank tương ứng ở mức 6.070 tỷ đồng và 25.740 tỷ đồng. Như vậy, trong trường hợp sử dụng toàn bộ quỹ dự phòng để đưa nợ xấu về 0, ngân hàng này vẫn dư ra hàng chục nghìn tỷ đồng. Trước đó, Vietcombank đã trích hơn 8.000 tỷ đồng chi phí dự phòng rủi ro 9 tháng đầu đầu năm 2021, nâng quỹ dự phòng lên hơn 26.400 tỷ đồng, tương đương tỷ lệ bao phủ 243%.
BIDV cũng tăng cường trích lập dự phòng trong năm 2021, đưa tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên 235% - mức cao nhất từ trước đến nay, con số này tại thời điểm 30/9/2021 là 140% và cuối năm 2020 chỉ là gần 89%. Điều đáng nói, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của BIDV tăng mạnh trong quý IV/2021, thời điểm nợ xấu giảm mạnh. Theo đó, dư nợ xấu vào cuối năm 2021 ước tính ở mức hơn 10.700 tỷ đồng, bằng một nửa con số 21.400 tỷ đồng vào cuối tháng 9/2021.
Tại VietinBank, khả năng phòng thủ nợ xấu cũng tăng đáng kể khi tỷ lệ bao phủ đạt 171% tính đến cuối quý IV/2021, tăng mạnh so với mức 119% vào cuối quý III và 132% của cuối năm 2020. Đồng thời, VietinBank cũng tăng chi phí dự phòng rủi ro từ 14.000 tỷ đồng lên khoảng 17.000 tỷ đồng. Theo lý giải của Chủ tịch HĐQT VietinBank Trần Minh Bình, việc tăng chi phí dự phòng đảm bảo cho các khoản nợ xấu phát sinh do dịch không chỉ là tăng sự thận trọng, mà còn là bộ đệm dự phòng cho những biến cố có thể xảy ra trong năm 2022.
Không chỉ các ngân hàng có vốn nhà nước chi phối, tỷ lệ bao phủ nợ xấu nội bảng cũng tăng nhanh tại một loạt ngân hàng tư nhân tính đến cuối tháng 9/2021: Techcombank (mã TCB) tăng từ 171% vào cuối năm 2020 lên 184%, MBBank (mã MBB) tăng từ 134% lên 233%, ACB (mã ACB) tăng từ 160% lên 198%…
Việc trích lập dự phòng rủi ro ngoài tuân thủ quy định hiện hành, cũng phụ thuộc vào chính sách quản trị rủi ro của từng ngân hàng. Theo quy định của Thông tư 14/2021/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 01/2020/TT-NHNN, các ngân hàng phải trích tối thiểu 30% dự phòng trong năm 2021 đối với các khoản nợ tái cơ cấu do ảnh hưởng dịch và trích thêm 30% mỗi năm trong 2 năm tiếp theo.
Quy định của Ngân hàng Nhà nước chỉ yêu cầu trích lập tối thiểu, chứ không yêu cầu tối đa, song lãnh đạo một ngân hàng quốc doanh cho hay: “Cơm không ăn thì gạo còn đó, trong khi tăng dự phòng cũng là tăng độ an toàn cho ngân hàng. Vì thế, dù Thông tư 14 về cơ cấu nợ xấu có được gia hạn hay không thì các ngân hàng tốt sẽ vẫn có đủ năng lực để xử lý rủi ro nợ xấu tăng. Chưa kể, bộ đệm tín dụng tốt cũng sẽ giúp ngân hàng tránh được những cú sốc đột ngột trong bảng cân đối kế toán”.
Phó thống đốc Đào Minh Tú cho biết, Ngân hàng Nhà nước xác định nợ xấu là thử thách lớn cần phải đối mặt trong năm 2022, song ngành ngân hàng đã có giải pháp, trước mắt là bảo đảm an toàn tài chính cho các tổ chức tín dụng khi nợ xấu tăng.
“Hiện Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng khung pháp lý về chất lượng tài sản và xử lý nợ xấu, trong đó bao gồm Thông tư 11/2021 về phân loại nợ và trích lập dự phòng; dự thảo sửa đổi Thông tư 52/2018 về đánh giá tổ chức tín dụng; Thông tư 16/2021 nhằm thắt chặt việc mua bán trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng và dự thảo sửa đổi Nghị định 153/2020 về thị trường trái phiếu doanh nghiệp; đồng thời đẩy nhanh tiến độ xử lý ngân hàng yếu kém do Nghị quyết 42/20217/QH14 về xử lý nợ xấu sẽ hết hiệu lực trong năm nay”, Phó thống đốc nói.