Ngân hàng phải tự nâng cấp mình trước

(ĐTCK) Hiện tại, để đáp ứng yêu cầu Basel II và phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro, yêu cầu bức thiết nhất là các tổ chức tín dụng cần phải tự nâng cấp mình trong công tác quản trị rủi ro.
Chi phí cho việc tổ chức một hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng được yêu cầu hiện nay rất đắt đỏ Chi phí cho việc tổ chức một hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng được yêu cầu hiện nay rất đắt đỏ

Thay đổi nhận thức về quản trị rủi ro

Trong lịch sử phát triển của tất cả các nền kinh tế, quá trình chọn lọc tự nhiên luôn diễn ra đồng đều ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh. Sự tồn tại và phát triển của từng chủ thể trong tất cả các lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh, bên cạnh việc đáp ứng thỏa đáng nhu cầu của thị trường, luôn gắn liền với một nền tảng quản trị rủi ro (QTRR) tốt, có khả năng phòng ngừa các loại rủi ro có thể phát sinh và tận dụng tốt các cơ hội do thị trường mang lại.

Kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực truyền thống trên cơ sở chấp nhận rủi ro để đạt được lợi nhuận mục tiêu. Nền kinh tế ngày càng phát triển, các lĩnh vực kinh doanh ngày càng năng động thì rủi ro đối với hoạt động ngân hàng cũng ngày càng phức tạp. Vì vậy, bên cạnh việc quản trị kinh doanh tốt, để tồn tại và phát triển, các ngân hàng cần phải chú trọng đến công tác QTRR và đặc biệt, cần bắt kịp xu hướng mới trên cơ sở các thông lệ QTRR tiên tiến. Hiện nay, bên cạnh nỗ lực giải quyết các khoản nợ xấu từ hoạt động cho vay trong quá khứ, các ngân hàng thương mại tại Việt Nam (NHTM) đã bắt đầu chuẩn bị các bước dài hơi hơn bằng cách xây dựng hệ thống QTRR tiên tiến nhằm phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro trong tương lai.

Về phía cơ quan quản lý nhà nước (Ngân hàng Nhà nước), với vai trò bảo đảm duy trì sự ổn định và an toàn hoạt động của hệ thống tài chính, đòi hỏi phải có cơ chế giám sát hiệu quả và phù hợp với xu hướng phát triển, cũng như các thông lệ chung. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nhiều giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác này, một trong số giải pháp trọng tâm hiện nay là việc triển khai áp dụng chuẩn mực quốc tế Basel II trong quản lý rủi ro của các NHTM và từng bước chuyển sang phương thức thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro.

Với quan điểm: “Sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia, dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển, có thể đe dọa đến sự ổn định về tài chính trong nội bộ quốc gia đó và trên trường quốc tế. Nhu cầu cần nâng cao sức mạnh của hệ thống tài chính nhất thiết phải được nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới quan tâm”, năm 1988, Ủy ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân hàng đã công bố các tiêu chuẩn về yêu cầu vốn để hạn chế rủi ro kinh doanh của các ngân hàng và tăng cường hệ thống tài chính (Basel I). Các quy định này đã được sửa đổi và vào tháng 6/2004, một hiệp ước về vốn mới (Basel II) được ban hành nhằm đáp ứng các yêu cầu của phát triển liên tục trong ngành ngân hàng.

Nội dung Basel II sử dụng khái niệm “Ba trụ cột”. Trụ cột thứ nhất là yêu cầu về vốn tối thiểu, duy trì vốn bắt buộc được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường.

Trụ cột thứ hai là thanh tra, giám sát ngân hàng. Với trụ cột này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát, giám sát, bao gồm: Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó; Cơ quan giám sát nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng; Cơ quan giám sát khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định; và cơ quan giám sát nên can thiệp ở giai đoạn đầu để bảo đảm mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiếu.

Trụ cột thứ ba là minh bạch và công khai hơn. Trụ cột này tập trung vào việc đưa ra các nội dung về việc tuân thủ các kỷ luật thị trường, công bố các loại thông tin về rủi ro, dự trữ, vốn đầy đủ và minh bạch.

Việc áp dụng chuẩn mực về vốn theo Basel II sẽ nâng cao sự an toàn, ổn định, phát triển lành mạnh và nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Nếu trụ cột thứ nhất của Basel II chỉ quan tâm đến yếu tố vốn nội bộ của các NHTM thì trụ cột thứ hai, bên cạnh các yêu cầu đối với các NHTM, có liên quan đến chất lượng thanh tra, giám sát của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng.

Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã và đang từng bước triển khai công tác quản lý giám sát theo hiệp ước vốn Basel II, đây là giải pháp được coi là trọng tâm, tạo nền tảng phát triển bền vững cho hệ thống ngân hàng nói chung và từng NHTM nói riêng. Ngày 17/3/2014, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Công văn số 1601/NHNN-TTGSNH để định hướng các ngân hàng thực hiện yêu cầu về vốn theo trụ cột thứ nhất. Theo đó, 10 NHTM được lựa chọn sẽ phải thực hiện tuân thủ Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn vào cuối năm 2015 và theo các phương pháp đo lường tiên tiến vào cuối năm 2018 tương ứng với từng loại rủi ro. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã ban hành 2 dự thảo thông tư quy định về hệ thống QTRR đối với các NHTM và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (hệ số CAR).

Đến nay, mốc thời hạn cuối năm 2015 của Công văn 1601/NHNN-TTGSNH đã hết và theo một số thông tin trên thị trường, để bảo đảm mức độ thực hiện của các NHTM, Ngân hàng Nhà nước sẽ dời thời điểm hiệu lực tuân thủ Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn từ ngày 1/9/2017 đối với 10 ngân hàng được lựa chọn và từ ngày 1/1/2019 đối với tất cả các NHTM còn lại.

Phương thức thanh tra trên cơ sở rủi ro

Điều 50 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 quy định: “Thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các TCTD và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của TCTD; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các TCTD; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng”. Như vậy, nhiệm vụ đặt ra cho thanh tra ngân hàng đó là làm thế nào để giúp các TCTD hoạt động an toàn hơn, hiệu quả hơn và tránh được đổ vỡ ở từng ngân hàng, cũng như toàn hệ thống.

Để bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước), cơ quan này phải duy trì hệ thống giám sát liên tục đối với hoạt động của các NHTM. Song song với quá trình giám sát hệ thống là việc thanh tra trực tiếp và tại chỗ đối với các ngân hàng vi phạm hoặc có dấu hiệu vi phạm an toàn hệ thống.

Tuy nhiên, trước sự phát triển theo xu hướng toàn cầu, hoạt động ngân hàng đang phát triển nhanh về quy mô, phạm vi, mức độ phức tạp và đa dạng sản phẩm dịch vụ, phương thức thanh tra chủ yếu đánh giá việc tuân thủ pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng đối với các thông tin, các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ của TCTD, việc thực hiện các quy định trong giấy phép hoạt động ngân hàng của các TCTD nhằm phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm sẽ trở nên kém hiệu quả và không phù hợp với xu hướng phát triển và với thông lệ quốc tế hiện nay.

Trên cơ sở thông lệ của Basel về thanh tra, giám sát ngân hàng (29 nguyên tắc cơ bản về thanh tra, giám sát ngân hàng của Basel) và so sánh đặc điểm của phương pháp thanh tra tuân thủ và thanh tra trên cơ sở rủi ro, các mục tiêu đối với phương thức thanh tra trên cơ sở rủi ro nhằm: Đánh giá mức độ và xu hướng các loại rủi ro NHTM đang phải đối mặt thông qua quy trình nhận diện, đo lường và kiểm soát rủi ro tại ngân hàng; Đánh giá hiệu quả của hệ thống và quá trình quản lý rủi ro, môi trường quản lý rủi ro, các quy định về vai trò và trách nhiệm của các thành viên liên quan trong quá trình quản lý rủi ro... của NHTM; Đánh giá khả năng an toàn vốn của NHTM theo xu hướng rủi ro đối với các loại rủi ro và rủi ro tổng thể.

Như vậy, khi kết hợp với thanh tra tuân thủ, việc thanh tra trên cơ sở rủi ro sẽ giúp cho Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đánh giá được đầy đủ hơn về mức độ và xu hướng của rủi ro, về khả năng đáp ứng vốn an toàn của NHTM theo xu hướng rủi ro và thực hiện tốt hơn vai trò bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, để thực hiện được việc này một cách đồng bộ, có lẽ Ngân hàng Nhà nước phải đưa ra lộ trình thực hiện đi theo sau lộ trình triển khai Basel II tại Việt Nam. Bên cạnh đó, các NHTM cũng phải tự nâng cấp mình trong công tác QTRR.

Giải pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro

Để nâng cao năng lực QTRR, các TCTD phải bảo đảm xây dựng công tác QTRR cả về yếu tố định lượng và định tính, trong đó cần phải có các yếu tố sau.

Thứ nhất, xây dựng đầy đủ khung QTRR và chiến lược quản lý rủi ro hiệu quả. Theo đó, cần thiết lập cơ cấu QTRR hiệu quả với sự quan tâm của Hội đồng quản trị và Ban điều hành, bảo đảm chức năng giám sát đầy đủ các mục tiêu quản trị. Trong đó, nhấn mạnh đến vai trò và trách nhiệm của từng thành viên trong quá trình giám sát và quản lý rủi ro, kể cả vai trò và trách nhiệm của Kiểm toán nội bộ trong quá trình đánh giá độc lập hệ thống quản lý rủi ro ngân hàng.

Xây dựng và truyền thông văn hóa rủi ro trên cả hệ thống ngân hàng. Việc truyền thông văn hóa rủi ro phải bảo đảm đến được từng cán bộ nhân viên và ý thức của nhân viên về rủi ro đối với nghiệp vụ kinh doanh đang thực hiện.

Thiết lập khẩu vị rủi ro trên cơ sở cân nhắc sự hài hòa giữa hiệu quả kinh doanh và rủi ro, đồng thời bảo đảm các quyết định kinh doanh đều nằm trong các giới hạn đã được thiết lập. Đây là công việc lâu dài và khẩu vị rủi ro phải không ngừng phát triển trên cơ sở mức độ và trình độ đánh giá - đo lường đối với từng loại rủi ro cụ thể.

Xây dựng khung quản lý rủi ro tổng thể và cụ thể đối với từng loại rủi ro. Ngân hàng cần phải được trang bị phương pháp luận về quản lý rủi ro đối với từng loại rủi ro cụ thể để có thể tổ chức về mặt dữ liệu, công nghệ,… đáp ứng cho quá trình đánh giá, đo lường rủi ro. Khi rủi ro đã được đánh giá và đo lường đầy đủ, ngân hàng có thể đưa ra các chiến lược quản lý rủi ro phù hợp với chiến lược kinh doanh và khẩu vị chấp nhận rủi ro của lãnh đạo ngân hàng.

Thứ hai, xây dựng chính sách, quy trình và các công cụ/phương pháp QTRR. Chính sách quản lý rủi ro được xây dựng trên cơ sở chiến lược quản lý rủi ro và phải có được phương pháp quản lý rủi ro đối với từng loại rủi ro trọng yếu hoặc được ngân hàng đánh giá là trọng yếu.

Bên cạnh đó, cần xây dựng các quy trình quản lý rủi ro, bảo đảm các công tác nhận diện – đo lường – giám sát – kiểm soát đối với các loại rủi ro trọng yếu; Xây dựng quy trình đánh giá đầy đủ vốn nội bộ (ICAAP) để bảo đảm mục tiêu an toàn vốn của ngân hàng, trong đó bao gồm cả việc dự phòng vốn cho các loại rủi ro khác; Triển khai các công cụ/phương pháp/mô hình phù hợp với từng loại rủi ro nhằm đo lường, đánh giá mức độ tác động các loại rủi ro; Phát triển các biện pháp định tính và định lượng để kiểm soát rủi ro và giảm thiểu rủi ro và Thiết lập cơ chế giám sát và báo cáo nhanh chóng, kịp thời đến từng cấp bậc.

Thứ ba, thực hiện phân bổ vốn hợp lý. Cần thực hiện tính toán vốn cho từng loại rủi ro, so sánh với yêu cầu vốn tối thiểu để bảo đảm hoạt động ngân hàng luôn tuân thủ các quy định của NHNN và nằm trong mức an toàn hợp lý. Đồng thời, xây dựng kế hoạch về vốn phù hợp với chiến lược kinh doanh và khẩu vị rủi ro của ngân hàng trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng.

Thứ tư, bảo đảm nguồn lực, hệ thống thông tin và cơ sở hạ tầng của hệ thống hiệu quả. Cụ thể, đáp ứng đầy đủ các dữ liệu thông tin phục vụ cho việc đo lường, tính toán. Hệ thống cần phải tích hợp đầy đủ và toàn diện để hỗ trợ và cung cấp thông tin kịp thời đối với các cấp độ toàn ngân hàng và kinh doanh.

Một số khó khăn khi triển khai

Đối với việc triển khai các nội dung nêu trên để nâng cao năng lực QTRR và đáp ứng việc thanh tra trên cơ sở rủi ro của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, hiện nay, các NHTM có thể tham khảo từ nguồn của Ủy ban Basel, các dự thảo thông tư hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước và các hướng dẫn thực hành hiệu quả từ nhiều tổ chức quốc tế khác nhau. Tuy nhiên, yếu tố kinh nghiệm trong quá trình triển khai là rất quan trọng và các ngân hàng có thể sẽ gặp nhiều khó khăn, phụ thuộc vào chất lượng của nhân sự quản lý rủi ro.

Khó khăn đầu tiên thường gặp phải là phương pháp luận cho từng loại rủi ro cụ thể và rủi ro tổng thể: đối với các ngân hàng tiếp cận Basel II trễ hơn theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, phương pháp luận đang được triển khai chưa đồng bộ và tổng thể. Trong khi chi phí cho việc tư vấn ở lĩnh vực này khá tốn kém. Phần lớn các ngân hàng triển khai từng phần và tự nghiên cứu triển khai nên thời gian có thể kéo dài hơn để tiến tới việc tính toán vốn tổng thể theo xu hướng rủi ro, đáp ứng mục tiêu an toàn vốn của thanh tra trên cơ sở rủi ro.

Bên cạnh đó, một khó khăn chung của cả hệ thống ngân hàng, đặc biệt là đối với rủi ro tín dụng là về dữ liệu đáp ứng. Việc xây dựng và chuẩn hóa cơ sở dữ liệu cho rủi ro tín dụng có thể sẽ mất rất nhiều thời gian.

Về hệ thống công nghệ thông tin: phải bảo đảm khả năng lưu trữ, trích xuất, đồng bộ và có hệ thống. Tuy nhiên, việc tổ chức hệ thống công nghệ thông tin cũng phải xuất phát từ phương pháp luận cho từng loại rủi ro cụ thể và rủi ro tổng thể. Do đó, việc triển khai không đồng bộ có thể sẽ phát sinh những thất bại và tốn kém trong tương lai. Chi phí cho việc tổ chức một hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng được yêu cầu hiện nay cũng rất đắt đỏ.

Chưa kể, việc nâng cao năng lực QTRR đòi hỏi ngân hàng phải có những nhân sự chuyên sâu và tổng thể trong công tác quản lý rủi ro, đồng thời am hiểu các thông lệ về quản lý rủi ro tốt nhất. Trong đó, kinh nghiệm về quản lý các hoạt động kinh doanh ngân hàng của người đứng đầu công tác quản lý rủi ro đóng vai trò rất quan trọng để thành công khi thực hiện, nhằm có thể kết nối các hoạt động kinh doanh - rủi ro - nguồn vốn của ngân hàng thành một mối quan tâm chung của toàn bộ hệ thống.

Khối quản lý rủi ro - Ngân hàng TMCP Sài Gòn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục