Đó là những thông tin được đưa ra ra tại Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2018 với chủ đề “Hiểu thị trường lao động để tăng năng suất” do Viện Nghiên cứu kinh tế và Chính sách (VEPR) phối hợp với Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) vừa công bố sáng 8/5.
Theo kết quả nghiên cứu được công bố tại Báo cáo, trên phương diện so sánh quốc tế, đặt trong mối tương quan với các nước Đông Bắc Á và ASEAN, tính đến năm 2015, năng suất lao động của 9 nhóm ngành của Việt Nam đều ở mức gần hoặc thấp nhất trong tất cả các nước trên.
Thậm chí, năng suất lao động của Việt Nam thấp nhất trong các nước so sánh, kể cả Campuchia ở 3 ngành công nghiệp chế biến chế tạo, xây dựng và vận tải, kho bãi, truyền thông.
Nếu không muốn bị vượt qua bởi các quốc gia láng giềng như Campuchia về năng suất lao động nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung, Việt Nam cần có những cải cách mạnh mẽ hơn để cải thiện năng suất lao động của các ngành kinh tế
- TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, năng suất lao động bình quân của Việt Nam thời gian gần đây cũng đã tăng trưởng mạnh. Cụ thể, năng suất lao động bình quân của Việt Nam tăng từ 38,63 triệu đồng/lao động năm 2016 lên mức 60,73 triệu đồng/lao động năm 2017. Trong giai đoạn 2006-2012, tốc độ tăng trưởng năng suất lao động của Việt nam giảm từ 4,05% xuống còn 3,06%.
Tính trung bình trong giai đoạn 2008 - 2016, các ngành kinh tế có năng suất lao động ở mức cao là các ngành khai khoáng, sản xuất và phân phối điện, khí, hoạt động tài chính ngân hang, bảo hiểm, hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ, kinh doanh bất động sản.
Tuy nhiên, những ngành lao động mang tính chủ chốt của nền kinh tế như công nghiệp chế biến chế tạo có năng suất còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, còn ngành nông nghiệp, lậm nghiệp và thủy sản thậm chí vẫn nằm trong số các ngành có mức năng suất lao động thấp nhất trong nền kinh tế và thấp hơn năng suất hầu hết các nước trong khu vực.
Với sự gia tăng khoảng cách so sánh với các nước, năng suất lao động của Việt Nam xếp gần cuối, chỉ cao hơn Campuchia ở các nhóm ngành nông nghiệp; điện, nước, khí đốt, bán buôn, bán lẻ, sửa chữa. Trong một thập niên gần đây, năng suất lao động của Việt Nam chủ yếu được cải thiện nhờ chuyển dịch cơ cấu.
Cũng theo kết quả nghiên cứu, năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng và phổ biến được sử dụng trong đo lường hiệu quả phát triển kinh tế.
Các chuyên gia kinh tế đã sử dụng phương pháp hoạch toán tăng trưởng và phân tích chuyển dịch cơ cấu để phân rã tốc độ tăng trưởng năng suất lao động nhằm tìm hiểu nguồn gốc tăng trưởng năng suất lao động vủa Việt Nam.
Theo đó, tốc độ tăng trưởng năng suất lao động phân rã thành tốc độ tăng mật độ vốn (tức số vốn trên một lao động) và tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Trong đó, TFP ngày càng quan trọng trong tăng trưởng năng suất lao động bình quân của Việt Nam.
Điều này cho thấy một thực tế là, sự giảm sút trong tốc độ tăng trưởng TFP là nguyên nhân chủ yếu kéo tụt tốc độ tăng trưởng năng suất lao động của Việt Nam trong các giai đoạn gần đây.
Để cải thiện năng suất lao động, chuyên gia kinh tế cho rằng, Việt Nam cần tiếp tục tạo điều kiện tích cực để thúc đẩy tăng trưởng TFP và có chính sách đào tạo, nâng cao tri thức, kỹ năng cho người lao động.
Bên cạnh đó, cơ quan chức năng cần có chính sách khuyến khích đổi mới, sáng tạo và cải tiến kỹ thuật trong sản xuất, áp dụng công nghệ để nâng cao năng suất lao động trong các ngành và đầu tư thêm vào việc nghiên cứu cải tiến công nghệ, cũng như mua công nghệ từ nước ngoài trong trường hợp cần thiết.
“Nếu không muốn bị vượt qua bởi các quốc gia láng giềng như Campuchia về năng suất lao động nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung, Việt Nam cần có những cải cách mạnh mẽ hơn để cải thiện năng suất lao động của các ngành kinh tế. Đồng thời, Việt Nam cần phát triển thị trường lao động cùng các chính sách liên quan nhằm thúc đẩy quá trình dịch chuyển lao động theo đúng nhu cầu dịch chuyển cơ cấu”, TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR nhấn mạnh.