Vì sao Rồng ngủ quên quá lâu?n
Việt Nam phải chọn con đường riêng để phát triển, nhưng bài học từ con Rồng khác châu Á cho thấy điều quan trọng nhất để hoá Rồng chính là nguồn nhân lực chất lượng cao và môi trường với nhiều cơ hội để những người đó phát triển. |
Đã từ lâu, người nước ngoài cho rằng, Việt Nam như một con Rồng châu Á có thể trỗi dậy bất kỳ lúc nào. Từ năm 1995, tác giả George Irvin của Viện Khoa học Xã hội (ISS) ở Hà Lan đã nhận xét trên Tạp chí Journal of Development Studies rằng, với những thành tựu của công cuộc Đổi mới, Việt Nam có nhiều thuận lợi để trở thành một con Rồng mới ở Đông Á.
Từ đó đến nay, đã có nhiều lần kinh tế Việt Nam được nhắc đến như là một con Rồng đang chuyển mình bay lên (rising dragon). Chẳng hạn, ngay cả vào năm 2010, khi kinh tế Việt Nam đã bắt đầu bộc lộ những khó khăn cần tháo gỡ, nhà báo Bill Hayton đã xuất bản một quyển sách tựa đề là Vietnam: Rising Dragon và được nhiều tờ báo của nước ngoài, trong đó có Financial Times và Wall Street Journal giới thiệu.
Tuy nhiên, thực tế thì bao năm qua, tình trạng của “con Rồng” Việt Nam là ở trạng thái… ngủ quên. Từ năm 2001, các tác giả Phạm Đỗ Chí, Trần Nam Bình và nhiều nhà nghiên cứu khác đã viết quyển sách Đánh thức con Rồng ngủ quên. Mười năm sau, tác giả Phạm Đỗ Chí viết quyển sách mới Khi Rồng muốn thức dậy. Điều đó có nghĩa là trong cách nhìn của chuyên gia này, con Rồng Việt Nam vẫn chưa… tỉnh ngủ và chưa thể bay lên. Điều này có phần trùng hợp với nhận xét của tác giả Justin Wintle khi bình phẩm về cuốn sách Vietnam : Rising Dragon của đồng nghiệp Bill Hayton trên tờ Financial Times. Theo Justin Wintle, trong bối cảnh Việt Nam đứng trước nhiều thử thách về kinh tế và môi trường, thì gọi Việt Nam là con Rồng đang bay lên quả thật quá mâu thuẫn.
So sánh với những nước và vùng lãnh thổ từng và đang được gọi là con Rồng ở Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Việt Nam có một khoảng cách nhất định về thu nhập quốc dân, hay nói cách khác, là “nghèo” hơn người ta nhiều. Năm 1995, khi George Irvin gọi Việt Nam là có nhiều thuận lợi để trở thành con Rồng mới, GDP trên đầu người của Việt Nam bằng một nửa của Trung Quốc (khoảng 288 USD so với 600 USD), thấp hơn Hàn Quốc 40 lần và Singapore 80 lần (theo số liệu của IMF). Đến năm 2011, IMF ước tính chênh lệch này là Trung Quốc cao gấp 4 lần Việt Nam (5.183 USD của Trung Quốc so với 1.361 của Việt Nam ). Vậy là, so với con Rồng có mặt bằng xuất phát điểm gần mình nhất vào năm 1995, “con Rồng” Việt Nam bị bỏ lại một khoảng xa.
Cũng có một điểm an ủi cho Việt Nam là, mặc dù bị con Rồng “bay nhanh” như Trung Quốc bỏ lại, Việt Nam vẫn thu ngắn cách biệt về GDP đầu người so với Hàn Quốc và Singapore, với khoảng cách lần lượt là 17 lần và 40 lần, giảm khoảng một nửa so với trước đây. Như vậy, quả thật chúng ta cũng có tiến bộ. Thật ra, Việt Nam vẫn có tính hấp dẫn với tư cách là một thị trường mới nổi nhiều tiềm năng. Một cuộc điều tra gần đây của Trường kinh doanh Wharton kết hợp với Công ty Fleishman-Hillard cho thấy, Việt Nam cùng với Colombia, Indonesia, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi (gọi tắt là CIVETS) nằm trong nhóm thị trường mới nổi được đánh giá có nhiều cơ hội thành công trong tương lai và hy vọng đạt được những thành quả tương tự nhóm BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc) đã đạt được từ năm 2001 tới nay. Thực tế từ nhiều năm qua, chúng ta không bị giới quan sát quốc tế bỏ quên. Điển hình là năm 2006, nhiều tờ báo quốc tế đã từng xem nền kinh tế Việt Nam là một ngôi sao mới cho đến khi những căn bệnh tiềm ẩn của nền kinh tế bị bộc lộ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Khi các học giả và giới đầu tư quốc tế nhìn về Việt Nam, họ thấy tiềm năng. Nhưng họ không biết được liệu Việt Nam có thể biến chuyển từ một nền kinh tế chỉ sản xuất những sản phẩm thô, công nghệ thấp sang xuất khẩu những sản phẩm công nghệ cao hơn hay không. Đó là điểm mấu chốt để Việt Nam có thể thoát bẫy thu nhập trung bình và chuyển mình hóa Rồng” |
Gỡ nút thắt để Rồng cất cánh
Những câu chuyện vừa kể trên là thực tế diễn biến tại Việt Nam, nhưng nó cũng giống những gì các con Rồng Đông Á khác, như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng Kông trải qua trong quá trình phát triển, đặc biệt là giai đoạn khủng hoảng châu Á 1997. Bản thân tôi thích tên gọi của quyển sách Những con Rồng lâm bệnh do tác giả Vũ Tuấn Anh chủ biên vào năm 2000, cho thấy những nước có thể hoặc đã được gọi là Rồng châu Á thì cũng có lúc bệnh như ai mà thôi. Chẳng hạn, năm 1998, lần lượt Hàn Quốc và Singapore đều có tăng trưởng GDP âm khá lớn. Sự sụp đổ thị trường nhà đất và chứng khoán tại Hồng Kông và Hàn Quốc có thể tìm thấy ở trên báo chí lẫn những bộ phim Hồng Kông hay Hàn Quốc mà nhiều người Việt Nam thích xem. Mối quan hệ giữa ngân hàng với các tập đoàn lớn, sự ưu ái về tín dụng cho tập đoàn lớn và có “quan hệ” rộng, và hệ quả đối với nợ xấu trong nền kinh tế là không lạ lẫm gì với giới quan sát kinh tế ở Việt Nam. Và ngay cả những gì đang diễn ra với những công ty chứng khoán Việt Nam, tình trạng được báo chí miêu tả là “gần 80% công ty chứng khoán thua lỗ” cũng đã từng diễn ra ở Trung Quốc vào đầu những năm 2000. Chẳng qua, giới quan sát kinh tế của Việt Nam đang xem lại một phiên bản Việt Nam của những kịch bản họ đã biết ở nước ngoài.
Với tư cách là một nước đi sau muốn hóa Rồng, Việt Nam có cơ hội quan sát và học cách chữa bệnh của các con Rồng đã lâm bệnh trước đây. Những bài thuốc này có thể được tìm thấy trong rất nhiều tài liệu cũng như trong lời khuyên của nhiều tổ chức quốc tế đang tư vấn cho Việt Nam trong quá trình “tái cấu trúc” - cách gọi của quá trình “chữa bệnh” cho Việt Nam. Vấn đề quan trọng ở hai chỗ: (1) bài thuốc tốt cho họ không nhất định tốt cho chúng ta; (2) mục tiêu và quyết tâm tái cấu trúc của chúng ta không nhất định đồng nhất với họ. Nếu nói có bài học trước mắt học theo là được, vậy thì vì cớ gì mà nhiều năm qua chúng ta cứ loay hoay mãi mà không thể cải thiện nổi cán cân vãng lai thâm hụt triền miên của mình, cũng như sự yếu kém của những doanh nghiệp nhà nước như Vinashin?
Phải đâu mà chúng ta không từng thấy những bài học vỡ nợ ngân hàng trong khủng hoảng kinh tế ở Thái Lan, bài học về đổ vỡ thị trường chứng khoán và bất động sản của Hồng Kông, Trung Quốc. Nhưng chúng ta cũng vướng vào những tình huống tương tự. Bởi vì chúng ta không thể vượt qua được cái cám dỗ được tung hô và ngồi đó tự huyễn hoặc mình, chứ không chịu thúc đẩy đổi mới lên một bước mới. Những thành quả kinh tế nhìn thấy được ở những năm 2005-2006 càng đẩy lùi quyết tâm cải cách. Chuyện hôm nay chúng ta lần lữa chờ sang hôm sau rồi lại hẹn một hôm khác. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đổi mới giáo dục, y tế là chuyện muôn năm cũ nhưng ngày một nhức nhối.
Khi các học giả và giới đầu tư quốc tế nhìn về Việt Nam , họ thấy tiềm năng. Nhưng họ không biết được liệu Việt Nam có thể biến chuyển từ một nền kinh tế chỉ sản xuất những sản phẩm thô, công nghệ thấp sang xuất khẩu những sản phẩm công nghệ cao hơn hay không. Đó là điểm mấu chốt để Việt Nam có thể thoát bẫy thu nhập trung bình và chuyển mình hóa Rồng. Lợi thế mỗi nước mỗi khác, Việt Nam liệu có thể dùng mô hình một nền kinh tế nặng về dịch vụ như Hồng Kông hay nặng về sản xuất những sản phẩm mà Trung Quốc và Hàn Quốc đã có lợi thế sẵn để chuyển mình hóa Rồng hay không? Đã bao năm qua chúng ta chấp nhận nhập siêu máy móc thiết bị để hiện đại hóa, nhưng hãy nhìn lại trong tỷ trọng xuất khẩu xem chúng ta đã xuất khẩu được bao nhiêu phần trăm những sản phẩm có hàm lượng “hiện đại hóa” cao?
Vậy nút thắt của Việt Nam ở đâu? Phải chăng nằm ngay trong đầu tư cho con người và những điều kiện thiết yếu để tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng của chúng ta quá thấp? Nếu so với các nước châu Á khác, số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, tỷ trọng số tiền chi cho giáo dục so với GDP hay so với tổng chi tiêu chính phủ của chúng ta không kém hơn Singapore, Thái Lan hay là Hàn Quốc, nếu không nói là có phần nhỉnh hơn. Nhưng về con số tuyệt đối thì chúng ta còn thua xa. Mặt khác, chi nhiều tiền không có nghĩa là hiệu quả cao, nếu phần lớn những khoản chi đó là lãng phí.
Nhiều bài báo trong nước phản ánh không ít chương trình lãng phí trong hoạt động giáo dục. Trong khi đó, kết quả của những khoản chi cho giáo dục là học sinh, sinh viên ra trường nói tiếng Anh vẫn kém. Vào tháng 9/2011, trên tờ Economist có một bài báo tựa đề là I am English teach. Tựa đề này không viết thiếu hay in thiếu, nó là câu trả lời của một giáo viên tiếng Anh ở Việt Nam với tác giả bài báo đó khi được hỏi cô ta làm nghề gì. Bài báo này phản ánh thực trạng của Việt Nam là phần lớn giáo viên dạy ngoại ngữ chưa đạt chuẩn, điều được báo chí trong nước phản ánh nhiều, và lại thu hút sự quan tâm của một tờ báo nước ngoài có uy tín như Economist. Vấn đề mấu chốt mà bài trên tờ Economist nhìn nhận là giáo viên Việt Nam không có đủ thời gian và tiền bạc để đầu tư cho việc học tiếng Anh, và trích dẫn các phát biểu cho rằng, các giáo viên này không nhận được hỗ trợ như mong đợi từ Nhà nước. Giáo viên không đạt chuẩn thì học sinh làm sao đạt chuẩn?
Sự lãng phí trong đầu tư nguồn nhân lực còn thể hiện ở chỗ sau khi tài trợ cho các du học sinh đi học ở nước ngoài qua các đề án của Chính phủ như 322, chương trình 300 thạc sĩ - tiến sĩ, những người được đào tạo này không được bố trí vị trí phù hợp. Điều này nghĩa là Nhà nước chi tiền đào tạo, nhưng không có mục tiêu sử dụng nhân lực một cách cụ thể, nghĩa là lãng phí tiền bạc lẫn con người.
Đó mới chỉ là ở góc độ nguồn nhân lực. Ở góc độ điều kiện cần thiết để phát triển các ngành công nghệ cao trong nước, rõ ràng, Việt Nam không có một nguồn tài chính và môi trường kinh doanh phù hợp cho chiến lược này. Theo một báo cáo nghiên cứu về việc “đảo ngược chảy máu chất xám” (reverse brain drain) ở Trung Quốc và Ấn Độ của Đại học California-Berkeley trong năm 2011, nhiều nhân lực công nghệ cao của Trung Quốc và Ấn Độ rời Mỹ quay lại quê hương để thành lập công ty vì họ nhìn thấy cơ hội kinh doanh ở trong nước và tìm được nguồn vốn từ những quỹ đầu tư mạo hiểm. Kết quả nghiên cứu kể trên còn khẳng định những ưu đãi của Nhà nước và chi phí kinh doanh rẻ ở trong nước không phải là quan trọng đối với quyết định trở về của các nhân lực chất lượng cao ở Trung Quốc và Ấn Độ. Chính sự rộng mở về cơ hội kinh doanh và cơ hội phát triển ý tưởng cá nhân quyết định điều đó, trong khi chính nó cũng là một yếu tố quan trọng đẩy nhân lực chất lượng cao rời khỏi hai quốc gia này nhiều năm trước.
Kết quả nghiên cứu này phản ánh việc cải thiện môi trường kinh doanh và mở rộng cơ hội phát triển đóng vai trò chủ chốt trong việc quyết định sự phát triển của ngành công nghệ cao, đặc biệt là trong thu hút nhân lực chủ chốt của ngành này. Những năm qua, Việt Nam không cho thấy rõ được một sự đầu tư có chiến lược và mục tiêu rõ ràng nào về công nghệ, cải thiện môi trường kinh doanh (thực tế là ngày một rớt lại phía sau trong nhiều chỉ tiêu xếp hạng), lẫn phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm nội địa để tài trợ cho các dự án công nghệ cao của chúng ta.
Lâu nay, nhiều ý kiến đã phân tích rằng, đãi ngộ không phải là yếu tố quan trọng nhất để thu hút chất xám người Việt trở về, mà chính là cơ hội cống hiến và phát triển của họ, nhưng cho đến giờ, vẫn chưa thấy có hành động “tái cấu trúc” nào thật sự cải thiện môi trường kinh doanh ở các lĩnh vực sản xuất hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao cả. Trong khi đó, những người đứng đầu một số ngành không có lợi thế cạnh tranh của Việt Nam vẫn kiên trì đòi bảo vệ ngành sản xuất đã lỗi thời của mình. Sự hạn chế về nguồn nhân lực và hạn chế về cơ hội phát triển cho nguồn nhân lực chất lượng cao mới thật sự là cản trở lớn với mục tiêu hóa Rồng của Việt Nam . Sự hạn chế này, không ít thì nhiều đến từ tình trạng độc quyền của một số tập đoàn nhà nước, mối quan hệ của các tập đoàn này với các nhóm lợi ích chính sách và các ngân hàng, đã bóp nghẹt nguồn lực đổi mới trong các ngành sản xuất hiện đại ở Việt Nam.
Lời kết
Những thảo luận ở trên cho thấy cản trở đối với vấn đề “hóa Rồng” ở Việt Nam không phải nằm ở chỗ chúng ta có xuất phát thấp hơn người ta, hay là chúng ta không học được tốt bài học của người ta, mà là chúng ta không có thái độ phù hợp và không mạnh dạn nhìn nhận điểm trọng yếu cần thay đổi, mà loay hoay với những chính sách giải quyết vấn đề từ ngọn.
Vấn đề phải điều chỉnh không phải là loay hoay với những chính sách như ngân hàng cần bao nhiêu vốn, tín dụng tăng trưởng bao nhiêu, hạ lãi suất hay tăng lãi suất, chi bao nhiêu tiền cho giáo dục và nên hay không nên cứu ngân hàng, bất động sản hay ngành đóng tàu... Vấn đề là, chúng ta phải làm gì để tiền chảy vào đúng nơi cần thiết để tạo ra nguồn nhân lực và môi trường kinh doanh phù hợp, nhằm tạo ra những ngành kinh doanh đột phá, đánh thức tiềm năng của con Rồng đang ngủ quên. Điều này ta không thể bắt chước hoàn toàn các con Rồng châu Á hiện tại, vì họ đã chọn con đường phù hợp cho họ. Chúng ta phải chọn con đường riêng, nhưng bài học từ các nước này cho chúng ta thấy cái quan trọng nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và môi trường với nhiều cơ hội để những người đó phát triển.