Điều kiện cần và đủ
Đề cập đến việc cần thiết phát triển thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV nhấn mạnh: “Ngân hàng là nghề kinh doanh rủi ro và rủi ro là sẽ có nợ xấu. Đây là câu chuyện hiện hữu và có nghĩa, nợ xấu là chuyện không thể tránh được”.
Theo TS. Lực, năm 2021, tín dụng ngân hàng chiếm khoảng 50% tổng cung ứng vốn cho nền kinh tế và dự tính vai trò tín dụng của hệ thống ngân hàng trong vài chục năm nữa vẫn là một kênh quan trọng. Do đó, giả sử nợ xấu được kiểm soát tốt, đặc biệt là tỷ lệ nợ xấu được tính thực chất, tính đầy đủ, gồm cả nợ tiềm ẩn rủi ro theo thông lệ quốc tế dưới mức 2 - 3% thì hàng năm vẫn cần nguồn vốn không nhỏ để xử lý nợ xấu.
Điểm đáng chú ý được ông Lực đề cập đó là thị trường trái phiếu đã phát triển nhanh hơn thị trường tín dụng ngân hàng trong thời gian qua và thực tế cho thấy có những rủi ro.
“Nên chăng, gộp hai thị trường này để xử lý nợ?”, TS. Lực đặt vấn đề.
Sự ra đời và phát triển của thị trường mua bán nợ được nhận định đã, đang và sẽ có đóng góp quan trọng trong sự phát triển của thị trường tài chính nói chung, sự ổn định, an toàn tài chính của hệ thống tổ chức tín dụng và hệ thống doanh nghiệp nói riêng.
“Thị trường là nơi cung và cầu gặp nhau. Nơi ở đây không phải là địa danh cụ thể, mà có thể tập trung hay phân tán nhằm tạo điều kiện cho thị trường phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, có thị trường tập trung sẽ thuận tiện hơn cho việc giao dịch mua bán đối với bất kỳ hàng hoá nào, trong đó có các khoản nợ. Do vậy, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước định hướng hình thành thị trường mua bán nợ tập trung và lấy Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) là hạt nhân, qua đó phát triển thị trường một cách đa dạng, mạnh mẽ trong thời gian tới”, ông Nguyễn Kim Anh, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước nói.
Đại diện VAMC, ông Đỗ Giang Nam, Phó tổng giám đốc cho biết, vài năm trở lại đây, thị trường xử lý nợ xấu có sự phát triển, đặc biệt là việc cho phép bán nợ xấu tới các tổ chức, cá nhân. Theo đó, tỷ trọng từ biện pháp thu hồi nợ xấu này gia tăng, nhưng vẫn còn khiêm tốn trong tổng nợ xấu đã được xử lý, một trong những lý do là vướng mắc liên quan đến hành lang pháp lý. Ví dụ, nếu nút thắt bảo vệ quyền lợi các nhà đầu tư được tháo gỡ sẽ có sự tăng trưởng xử lý nợ xấu đáng kể.
Nhìn trong tổng thể, ông Nam chia sẻ, để phát triển thị trường mua bán nợ xấu hoàn chỉnh và thu hút người mua cần hội tụ 3 điều kiện. Thứ nhất, có cơ chế thu hút rộng rãi các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ ngoài VAMC, DATC, tổ chức tín dụng, còn có các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các tổ chức định giá, xếp hạng tín nhiệm, môi giới… Thứ hai, xây dựng nền tảng hạ tầng công nghệ nhằm kết nối giữa người mua và người bán, cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, minh bạch. Thứ ba, có tổ chức dẫn dắt thị trường có kinh nghiệm, tiềm lực tài chính, có khả năng kết nối các thành phần tham gia.
Bước đi để lối thành đường
Nợ xấu ngân hàng có nguy cơ tăng |
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư Chứng khoán, nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, thậm chí lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước và VAMC đều thừa nhận, thị trường mua bán nợ Việt Nam về cơ bản vẫn còn sơ khai.
“Phải bước đi để lối thành đường trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác trên thế giới”, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế nói.
Chia sẻ câu chuyện của Hàn Quốc, ông Choe Sun Joon, Trưởng nhóm Ban Kinh doanh quốc tế, Tổng công ty Quản lý tài sản Hàn Quốc cho hay, bối cảnh triển khai chứng khoán hoá khoản nợ xấu được xuất phát trên nhu cầu xử lý nợ xấu khi hậu khủng hoảng ngoại hối năm 1997 đã dẫn đến khối lượng nợ xấu tăng mạnh.
“Yêu cầu đặt ra phải có một công cụ kỹ thuật tài chính mới để nhanh chóng xử lý khối lượng nợ xấu này. Bên cạnh đó là nhu cầu tài trợ vốn của các doanh nghiệp do lực cầu trái phiếu doanh nghiệp và các khoản vay trên thị trường giảm, bởi khủng hoảng làm mất khả năng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp cần thêm các kênh tài trợ vốn mới”, ông Choe Sun Joon nói.
Khó khăn lớn nhất là định hình thị trường mua bán nợ thông qua chứng khoán hóa khoản nợ, bởi định giá khoản nợ hiện nay chưa có các quy định hướng dẫn.
Theo đó, Đạo luật Chứng khoán hoá bảo đảm bằng tài sản được Hàn Quốc ban hành ngày 16/9/1998, với nội dung chính là tính pháp lý và quy định về tổ chức của công ty có mục đích đặc biệt (SPC) cho hoạt động chứng khoán hoá, điều khoản miễn trừ cho chuyển nhượng trái phiếu, hoặc chuyển nhượng quyền xử lý tài sản, thuế liên quan đến chứng khoán khoản nợ.
Những bước chính của quy trình chứng khoán hoá khoản nợ bao gồm: sơ bộ nghiên cứu tính khả thi trên cơ sở phân tích ngành, đánh giá tài sản cần chứng khoán hoá và dự tính dòng tiền; lựa chọn các tổ chức liên quan như tổ chức bảo lãnh phát hành, công ty kế toán, công ty luật, tổ chức xếp hạng tín nhiệm; tiến hành họp triển khai trên cơ sở các đại lý thảo luận về cơ cấu chứng khoán hoá và kế hoạch về tiến độ phát hành chứng khoán.
Điểm đáng chú ý được ông Choe Sun Joon đề cập đó là việc xác nhận tài sản cơ sở liên quan đến việc ấn định ngày chuyển giao tài sản chứng khoán và xác nhận tài sản chứng khoán được chuyển lại cho SPC, tiếp theo là công ty kế toán thẩm tra và định giá tài sản tại ngày chuyển giao; trường hợp phát hành ra công chúng cần thực hiện kiểm nghiệm sức chịu đựng (stress test) để đánh giá rủi ro dòng tiền của tài sản chứng khoán hoá và xác định xếp hạng tín dụng của chứng khoán.
“Đại lý thảo luận về cơ cấu chứng khoán hoá và kế hoạch tiến độ phát hành chứng khoán, hay xây dựng hợp đồng chứng khoán hoá bao gồm hợp đồng ký gửi, hợp đồng quản lý tài sản, hợp đồng chuyển giao tài sản”, ông Choe Sun Joon nói.
Để việc bán nợ xấu đạt hiệu quả, ông Karlis Bauze, chuyên gia tài chính cao cấp, Ngân hàng Thế giới cho rằng, cần thỏa mãn các điều kiện: khung pháp lý khẳng định quyền chủ nợ; thông tin được công bố đầy đủ; thực hiện tốt việc định giá, hạch toán kế toán; khung pháp lý về chuyển giao tài sản hiệu quả; chế độ về thuế thuận lợi đối với việc chuyển nhượng tài sản và các nhà đầu tư quen thuộc với việc sử dụng nền tảng giao dịch điện tử.
Chia sẻ kinh nghiệm vận hành nền tảng giao dịch nợ điện tử, ông Karlis Bauze cho biết, nền tảng giao dịch nợ chỉ là công cụ và chỉ hoạt động hiệu quả khi có hạ tầng đủ mạnh để có thể hấp dẫn, khuyến khích nhà đầu tư. Bên cạnh đó, cần có môi trường thuận lợi để nền tảng giao dịch nợ trực tuyến có thể hoạt động tối ưu, có cơ chế xác định quyền chủ nợ mạnh mẽ đảm bảo chắc chắn công bằng và nhất quán đối với tất cả các nhà đầu tư.
Đồng thời, quy trình đấu giá phải được thực hiện công khai và công bằng, các nhà đầu tư tiềm năng đều được đối xử bình đẳng và được tiếp cận thông tin như nhau. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư có thể tiếp cận các tổ chức uy tín khác (luật sư, kế toán, công ty dịch vụ...) trong quá trình xử lý.
“Các nền tảng giao dịch cần phải dễ sử dụng. Dù nền tảng giao dịch nợ có thể tốn thời gian, chi phí để thiết lập và duy trì hoạt động, nhưng các nền tảng giao dịch nợ có thể thu hút thêm các nhà đầu tư quan tâm trong quá trình mua bán tài sản, người bán cũng nhận được thuận lợi về giá cả hơn trong quá trình bán qua nền tảng giao dịch”, ông Karlis Bauze nhấn mạnh.
Định giá khoản nợ không thể “chốt cứng”
Ông Nguyễn Tiến Đông, Chủ tịch Hội đồng thành viên VAMC
Khuôn khổ pháp lý, quy định về luật và hệ thống văn bản dưới luật của Việt Nam cho việc phát triển thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam hiện chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ. Trong đó, khó khăn lớn nhất là định hình thị trường mua bán nợ thông qua chứng khoán hóa khoản nợ, bởi định giá khoản nợ hiện nay chưa có các quy định hướng dẫn. Định giá khoản nợ là yếu tố quan trọng gần như bậc nhất để hình thành giá trị khoản nợ và từ giá trị khoản nợ mới có thể chứng khoán hóa khoản nợ, rồi tiến tới giao dịch trên thị trường mua bán nợ xấu.
Nghị định 53/2013/NĐ-CP giao cho VAMC hoặc các tổ chức tín dụng hoặc các công ty thẩm định giá được tự định giá, tuy nhiên, các công ty thẩm định giá đang rất lúng túng trong việc định giá khoản nợ xấu. Định giá tài sản đã có quy trình hướng dẫn cụ thể, nhưng định giá các khoản nợ phạm vi rộng hơn, phức tạp hơn và độ rủi ro cao hơn.
Nếu để VAMC định giá trong bối cảnh đã phân tích, hiểu rõ sự minh bạch, xu hướng thị trường, tính pháp lý của tài sản bảo đảm hay khoản nợ..., thì những định giá này không thể “chốt cứng” giá, mà phải đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên. Được biết, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính phải có văn bản trình Chính phủ về việc quy định rõ vấn đề này làm cơ sở cho VAMC, tổ chức tín dụng, các tổ chức thẩm định giá có căn cứ để định giá nợ xấu.
Thực tế, những vấn đề này, VAMC đã báo cáo Ngân hàng Nhà nước, nhưng vẫn triển khai sàn giao dịch để trước hết có người mua, người bán, có hàng hóa, đặc biệt là có tiêu chuẩn, điều kiện, nguyên tắc để các bên khi tham gia vào “chợ” hiểu rằng cần phải đáp ứng những điều kiện nào. Chúng tôi vừa vận hành, vừa rút kinh nghiệm và kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội để hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động thị trường mua bán nợ xấu.
Chúng tôi kỳ vọng, những vướng mắc sẽ sớm được giải quyết, bởi sau 2 năm đại dịch Covid-19 và xung đột chính trị, chiến tranh trên thế giới, kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng, nợ xấu trong nền kinh tế tất yếu tăng lên. Với hệ thống ngân hàng, kể cả những tổ chức tín dụng có quản trị rủi ro tốt, nợ xấu cũng có nguy cơ tăng.
Ban hành luật riêng hay sửa luật chung đều phù hợp
Luật sư Andrew Godwin, Chuyên gia Ngân hàng Thế giới
Cải cách khung pháp lý cho thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam có thể đạt hiệu quả cao nhất khi tất cả các vấn đề pháp lý và cấu trúc có liên quan được xem xét một cách toàn diện. Bên cạnh đó, quá trình cải cách cần đảm bảo đầu vào về chính sách và kỹ thuật được tiếp nhận và cần tính đến tác động nhất quán với khung khổ pháp lý chung.
Lưu ý, chúng ta không chỉ xem xét nội dung của luật, mà cần đến cả thiết kế của khung pháp lý nhằm đảm bảo sẽ không gặp phải vấn đề liên quan đến sự phân mảnh trong các quy định, tức các quy định pháp lý cần có tính nhất quán cao. Đồng thời, xây dựng kế hoạch khả thi để thực hiện quá trình cải cách.
Liên quan đến quá trình cải cách pháp lý cho thị trường mua bán nợ xấu, cần rà soát, xem xét tất cả các vấn đề liên quan. Ví dụ, quy trình và thủ tục chuyển nhượng nợ xấu liên quan đến hợp đồng, hệ quả pháp lý sau khi chuyển giao tài sản... Các quy định pháp lý tại Mỹ hay Anh được ban hành để đảm bảo rằng, sau khi hợp đồng được thực hiện, tài sản thực sự được chuyển nhượng và điều này chứng tỏ hoạt động của thị trường là hiệu quả.
Để tiến trình thực hiện cải cách pháp lý có tính khả thi, cần phải có “bản đồ đánh giá thực trạng”, xem xét kinh nghiệm ở các quốc gia khác và tham vấn các bên liên quan. Bên cạnh đó, chúng ta cần phải xem xét vấn đề có nên ban hành luật riêng hay sửa luật chung? Theo tôi, để phát triển thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam, cả hai cách thức này đều phù hợp.
Gần 1.000 tỷ đồng nợ xấu đã được xử lý qua Sàn giao dịch
Ông Vũ Ngọc Minh, Giám đốc Sàn giao dịch VAMC
Tháng 10/2021, VAMC thành lập Sàn giao dịch nợ với nhiệm vụ chính là tư vấn, môi giới mua bán các khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam. Sau một năm chính thức đi vào hoạt động, Sàn giao dịch nợ đã bước đầu tạo được một số chức năng chính, đặc biệt là tạo lập cơ sở dữ liệu trên cơ sở ký các hợp đồng nguyên tắc với các tổ chức tín dụng. Sàn giao dịch đã đăng tải gần 32.000 tỷ đồng bao gồm các khoản nợ chào bán và các tài sản chào bán trên website, qua đó gần 1.000 tỷ đồng đã được xử lý. Cụ thể, Sàn giao dịch xử lý trực tiếp gần 200 tỷ đồng và các tổ chức tín dụng xử lý được gần 800 tỷ đồng.
Đáng chú ý, trên cơ sở dần tạo thêm được chức năng quản lý và vai trò dẫn dắt thị trường mua bán nợ cũng như thể hiện chức năng của Sàn giao dịch, Ban lãnh đạo VAMC đã cho phép Sàn giao dịch nợ trực tiếp mua bán nợ theo giá thị trường đối với các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư quan tâm. Sàn giao dịch nợ hiện có gần 200 thành viên đăng ký tham gia giao dịch, ký hợp đồng nguyên tắc, theo đó chuyển danh mục hàng hóa là khoản nợ và tài sản bảo đảm cần bán cho Sàn.
Sàn giao dịch nợ là mô hình rất mới ở Việt Nam và để hoạt động của Sàn phát huy được hiệu quả cần có thêm thời gian để hoàn thiện, xây dựng thêm cơ sở hạ tầng, công nghệ, website…, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tổ chức tín dụng trong việc sử dụng hiệu quả các chức năng của Sàn. Đặc biệt, hoàn thiện hành lang pháp lý để phát triển các nghiệp vụ của Sàn giao dịch nợ, hay có những cơ chế, chính sách khuyến khích các nhà đầu tư với trọng tâm là các tổ chức tín dụng tăng cường giao dịch trên Sàn, nhằm tạo thêm sự sôi động và tính thanh khoản, minh bạch, công khai.
Khung pháp lý về mua bán nợ xấu cần được hoàn thiện
Ông Johannes Raschke, Chuyên gia Công ty Tài chính Quốc tế
Việt Nam đã có một thị trường mua bán nợ năng động với những bên bán sẵn sàng và khung pháp lý thuận lợi cho giao dịch nợ xấu, nhưng chưa tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia.
Tôi muốn nhấn mạnh vào Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (nghị quyết này đã được kéo dài thời hạn áp dụng đến hết ngày 31/12/2023), cụ thể là đối tượng của Nghị quyết chỉ bao gồm các ngân hàng và VAMC, mà không bao gồm doanh nghiệp mua bán, xử lý nợ xấu tư nhân (trong nước và có vốn đầu tư nước ngoài). Nói cách khác, Nghị quyết 42 chưa mở rộng phạm vi, khuyến khích nhiều đối tượng tham gia thị trường.
Khung pháp lý về mua bán nợ xấu cần được hoàn thiện để giúp nhà đầu tư có khả năng xác định rõ ràng dòng tiền trong các kịch bản xử lý nợ và trong thẩm định tình trạng pháp lý của tài sản. Việc cho phép thu giữ tài sản thế chấp có ý nghĩa quan trọng trong thúc đẩy giao dịch nợ xấu có bảo đảm (thường chiếm tỷ lệ cao nhất trong các loại nợ xấu).
Liên quan đến mức giá, cần có các quy định cụ thể và tiêu chuẩn thẩm định (thẩm định độc lập), đồng thời giải quyết những điểm chưa rõ ràng liên quan đến việc trả lại vật chứng trong vụ án hình sự (giảm giá do tình trạng pháp lý của tài sản, kịch bản, điều khoản mua lại…) cũng như những khó khăn liên quan đến chuyển nhượng tài sản. Bên cạnh đó, đơn giản hóa thủ tục cưỡng chế tài sản bảo đảm, có quy trình xử lý nhanh đối với yêu cầu đòi nợ nhỏ, có khuôn khổ tái cơ cấu hiệu quả và thủ tục phá sản được đơn giản hóa.
Đặc biệt, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia thị trường bằng các chính sách ưu đãi, trong đó có ưu đãi thuế.