Luận giải đầy sức thuyết phục, sâu sắc một vấn đề lớn, rất cơ bản, quan trọng
Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã luận giải đầy sức thuyết phục, sâu sắc một vấn đề lớn, rất cơ bản, quan trọng, đặt ra trong sự nghiệp cách mạng nước ta: về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn lý luận và thực tiễn; nói thực tiễn mà rất lý luận, nói lý luận trên nền thực tiễn sinh động trên thế giới và ở nước ta qua gần 40 năm đổi mới toàn diện đất nước.
Bài viết đã đề cập toàn diện, thấu đáo tất cả các lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, làm sáng tỏ 4 câu hỏi lớn mà Tổng Bí thư đặt ra ở ngay đầu bài viết.
Bài viết đã giúp cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta tin tưởng vững chắc hơn dựa trên cơ sở hiểu sâu sắc, toàn diện, đầy đủ có căn cứ khoa học và thực tiễn về “định hình chủ nghĩa xã hội thế nào và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam?” (tất cả các trích dẫn đều trích trong bài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của GS-TS. Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam).
Bài viết cũng làm sâu sắc hơn những chủ trương, đường lối do Đại hội XIII của Đảng đề ra để tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đề ra.
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản viết lưu bút tại Phòng truyền thống Tạp chí Cộng sản, ngày 9/6/2012. Ảnh: Lưu trữ Tạp chí Cộng sản |
Trong bài viết, Tổng Bí thư phân tích sâu sắc, với bằng chứng hùng hồn, không thể bác bỏ về sự thật bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại: một xã hội, dù đạt được thành tựu to lớn về phát triển lực lượng sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ, có sự điều chỉnh về phúc lợi xã hội…, nhưng là xã hội phát triển không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường; mâu thuẫn giữa lao động và tư bản ngày càng gay gắt; một xã hội “tự do, bình đẳng” chỉ là hình thức, thực tế người dân không có điều kiện thực hiện các quyền đó…
Tổng Bí thư làm sáng tỏ những giá trị đích thực, tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội là thực sự vì con người, vì sự phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường cho thế hệ hôm nay và mai sau; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn…; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ Nhân dân…
Tổng Bí thư phân tích sâu sắc hơn quy luật của cách mạng Việt Nam: độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam, là mục tiêu, lý tưởng của Đảng, là nguyện vọng thiết tha của Nhân dân ta…
Trả lời câu hỏi lớn: “Chủ nghĩa xã hội là gì và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào để vừa tuân theo quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam?”, Tổng Bí thư khẳng định 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhân dân ta phấn đấu xây dựng. Tổng Bí thư phân tích trên cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc, xác đáng, đầy sức thuyết phục về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, an ninh quốc phòng, đối ngoại, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng chỉnh đốn Đảng…
Chẳng hạn, Tổng Bí thư phân tích thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản là bỏ qua cái gì và phải kế thừa cái gì: “Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”.
Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta…”. Tổng Bí thư khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”…
Tổng Bí thư chỉ ra rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa “là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người”…, tất cả “đều vì lợi ích của Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”… Tổng Bí thư khẳng định: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”, vì vậy, phải đặc biệt chú trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, sống còn… Vận hành hiệu quả cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ…
Trong bài viết, bằng những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua thực tiễn hơn 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, Tổng Bí thư chứng minh: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Bác Hồ, Đảng ta, Nhân dân ta lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn, kết quả đạt được là không thể phủ nhận. “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đồng thời, Tổng Bí thư cũng chỉ ra những khuyết điểm, hạn chế và những thách thức mà chúng ta đang phải đối mặt…
Tổng Bí thư khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội”. Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…
Chỉ rõ đặc trưng cơ bản, thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam
Trong bài viết “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”, cả lý luận và thực tiễn chứng minh nhận định trên của Tổng Bí thư là hoàn toàn đúng đắn.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gắn Huân chương Hồ Chí Minh (lần thứ hai) trao tặng Tạp chí Cộng sản. |
Kinh tế thị trường (trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, khi mọi sản phẩm đều có thể trở thành hàng hóa) là sản phẩm của văn minh nhân loại, xuất hiện từ rất xa xưa, từ chế độ phong kiến, được phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản. Nghĩa là, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà kinh tế hàng hóa - nguồn nuôi dưỡng và xuất phát điểm của kinh tế thị trường - tồn tại trong nhiều chế độ xã hội khác nhau, song không có kinh tế thị trường chung, đồng nhất cho mọi chế độ xã hội khác nhau.
Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta…
Tổng Bí thư
Mặc dù kinh tế thị trường là mô hình phát triển phổ quát, có những đặc điểm chung, có những giá trị, nguyên tắc, chuẩn mực chung, vận động theo những quy luật chung…, nhưng ở mỗi quốc gia, kinh tế thị trường có sắc thái riêng, có dấu ấn riêng về lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội, truyền thống… Trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường mang những đặc trưng, bản chất khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất, vào bản chất chính trị của chế độ xã hội đó, phù hợp với lịch sử, văn hóa, tập quán của từng quốc gia, dân tộc.
Mặc dù những quy luật kinh tế chi phối sự vận động, phát triển của nền kinh tế thị trường là khách quan, có những yêu cầu tất yếu như nhau, nhưng quan điểm, tập quán, thói quen vận dụng những quy luật kinh tế khách quan đó trong mỗi quốc gia là khác nhau. Không thể có nền kinh tế thị trường ở nước này lại là bản sao của kinh tế thị trường ở nước khác.
Trên thế giới, đã có nhiều mô hình phát triển kinh tế thị trường như kinh tế thị trường tự do ở Mỹ, kinh tế thị trường xã hội ở CHLB Đức, kinh tế thị trường cộng đồng trách nhiệm (hay phối hợp) ở Nhật Bản, kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc… Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường xuất hiện mô hình kinh tế thị trường mới - kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây thực sự là “một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta…”.
Qua thực tiễn gần 40 năm đổi mới toàn diện đất nước, một thành quả lý luận quan trọng được khẳng định: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, là sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta và là con đường, phương thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì nền kinh tế là nền kinh tế quá độ, không thể có ngay kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường của thế giới, vừa vận dụng, phát triển sáng tạo cho phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một thể thống nhất, bao gồm hai mặt gắn bó biện chứng hữu cơ với nhau là kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; con người vừa là mục tiêu vừa là động lực, nguồn lực phát triển… Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa vận động, phát triển tuân theo, chịu sự chi phối của những quy luật của kinh tế thị trường; vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối, hàm chứa, gắn với và hướng tới những giá trị cơ bản của các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển đồng bộ, toàn diện trong cả 4 khâu của quá trình tái sản xuất xã hội: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng; trên cả 3 quan hệ cơ bản của quan hệ sản xuất xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” (theo “Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII” - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, 2021).
Các thành phần kinh tế hợp tác, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành hữu cơ quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng tồn tại, phát triển lâu dài. Các thành phần kinh tế được bình đẳng trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực phát triển và trách nhiệm, nghĩa vụ đối với đất nước, đối với xã hội. Phân phối các nguồn lực đầu vào cho sản xuất và phân phối sản phẩm làm ra bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch và tạo động lực cho phát triển.
Ở nước ta hiện nay thực hiện chế độ phân phối với nhiều hình thức, chủ yếu là phân phối theo lao động, theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời còn phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách… Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội…, Tổng Bí thư đã chỉ ra rằng: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không ‘hy sinh’ tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”...
Thực tiễn qua gần 40 năm đổi mới toàn diện đất nước, “trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước”, “kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”. Đó là những thành tựu không thể phủ nhận, mặc dù trong thực tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục hoàn thiện…
Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là vấn đề mang tính tất yếu của công cuộc đổi mới, mà còn là sự đúng đắn về nguyên tắc, quan điểm của Đảng, đồng thời là đòi hỏi của thực tiễn đất nước với điểm xuất phát thấp đi lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam; không chỉ là nền móng bảo đảm độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, mà còn là điều kiện căn bản và môi trường rộng mở tối ưu bảo đảm cho sự phát triển năng động, mạnh mẽ và bền vững của nền kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và vì mục tiêu tiến bộ xã hội, xét trên cả hai bình diện đối nội và hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, hiệu quả. Đó cũng là sự thể hiện ưu thế tuyệt đối của chế độ xã hội ta khi xem kinh tế thị trường chỉ là phương tiện, công cụ hữu hiệu để xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phục vụ nhân dân so với các chế độ xã hội khác cũng phát triển kinh tế thị trường.