Khuyến nghị trên được các chuyên gia tài chính đưa ra tại Hội thảo “Triển khai IFRS 9 - Đón đầu Cơ hội và Thách thức” ở Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh do PwC Việt Nam phối hợp cùng SAS Malaysia tổ chức trong hai ngày 20 và 21/9/2018.
Chia sẻ về định hướng của Bộ Tài Chính trong xây dựng đề án triển khai áp dụng IFRS tại Việt Nam, ông Lưu Đức Tuyên, Phó cục trưởng Cục quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán, Bộ Tài chính cho biết: “Đề án triển khai IFRS sau khi xây dựng xong sẽ được trình Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện.
Nội dung cơ bản của đề án sẽ chia các doanh nghiệp Việt Nam thành 3 nhóm: nhóm các doanh nghiệp sẽ áp dụng toàn bộ IFRS, nhóm các doanh nghiệp áp dụng Chuẩn mực kế toán Việt Nam (Chuẩn mực kế toán Việt Nam sẽ được bổ sung và sửa đổi trên cơ sở cập nhật những thay đổi của IFRS phù hợp với đặc thù của Việt Nam) và nhóm các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ.
Quá trình chuyển đổi sẽ được thực hiện từ khi đề án được phê duyệt (dự kiến 2019-2020) và tiến hành trong thời gian phù hợp với nguyên tắc đảm bảo khả năng thực hiện của các doanh nghiệp.”
Theo bà Đinh Hồng Hạnh, Phó tổng giám đốc Dịch vụ Tư vấn tại Công ty Tư vấn PwC Đông Nam Á, những thay đổi quan trọng nhất của IFRS 9 với các ngân hàng Việt Nam là khả năng tăng trích lập dự phòng tổn thất tín dụng được ước tính bằng giá trị tổn thất trong tương lai.
Do IFRS 9 đưa ra mô hình tổn thất tín dụng dự kiến (Expected Credit Loss-ECL) áp dụng cho tất cả các công cụ tài chính liên quan đến rủi ro tín dụng, các ngân hàng sẽ phải trích lập dự phòng cho các khoản tổn thất trong tương lai, ngược với thực tiễn hiện hành là chỉ trích lập dự phòng cho các tổn thất đã phát sinh theo quy định trong chuẩn mực IAS 39.
Các mô hình rủi ro tín dụng mới sẽ cần phải được phát triển bằng cách sử dụng dữ liệu lịch sử về tổn thất tín dụng và các biến số kinh tế vĩ mô để ước tính tổn thất dự kiến trong tương lai.
Liên quan đến tác động của mô hình rủi ro tín dụng mới, các chuyên gia của PwC dự đoán tổn thất dự phòng sẽ tăng khi dịch chuyển từ mô hình tổn thất đã phát sinh sang mô hình tổn thất tín dụng dự kiến.
Một cuộc khảo sát gần đây của các ngân hàng Malaysia dựa trên kết quả báo cáo quý I tiết lộ rằng, trích lập dự phòng đã tăng từ 25% đến 50% vào ngày đầu tiên áp dụng IFRS 9, và điều này tác động trực tiếp đến lợi nhuận giữ lại.
Chia sẻ kinh nghiệm, ông Ching Chuan Ong, Lãnh đạo Dịch vụ Tài chính của PwC Malaysia nhấn mạnh việc triển khai IFRS 9 sẽ là chìa khóa cho các ngân hàng Việt Nam muốn cung cấp thông tin tài chính minh bạch và thống nhất với các tiêu chuẩn toàn cầu.
“Tuy nhiên sẽ có một số thách thức khi triển khai liên quan đến việc đánh giá mô hình kinh doanh và thực hiện Công cụ đánh giá Thanh toán thuần gốc và lãi (SPPI) để phân loại tài sản và thực hiện tính toán dự phòng tổn thất dựa trên khái niệm tổn thất tín dụng dự kiến. Điều này có thể dẫn đến một cuộc đại tu về các chiến lược đầu tư và quản lý tín dụng”, ông Ching Chuan Ong cho hay.
Ông Antonie Jagga, Phó tổng giám đốc Dịch vụ Quản lý Rủi ro Tài chính tại PwC Đông Nam Á bổ sung thêm, các mô hình tổn thất tín dụng dự kiến sẽ cho phép các ngân hàng Việt Nam quản lý rủi ro tốt hơn, phù hợp với các thông lệ tốt nhất trên toàn cầu.
Đồng thời, ông Antonie Jagga nhấn mạnh rằng chất lượng và tính sẵn có của dữ liệu sẽ là yếu tố quan trọng để triển khai thành công các mô hình rủi ro của IFRS 9.
Các ngân hàng sẽ cần lượng dữ liệu lịch sử lớn với một danh sách đầy đủ các thông tin đầu vào của mô hình và có thể tận dụng các mô hình Basel hiện có nhưng vẫn cần điều chỉnh cùng các yếu tố vĩ mô để áp dụng tính toán tổn thất tín dụng dự kiến theo IFRS 9.
Đồng quan điểm này, ông James Clarke, Giám đốc Tư vấn kinh doanh Rủi ro tại SAS châu Á - Thái Bình Dương cho rằng, triển khai áp dụng IFRS 9 sẽ có thể mang đến cơ hội cho các ngân hàng ở Việt Nam thiết lập một nền tảng tích hợp giữa Rủi ro-Tài chính, thúc đẩy sự tuân thủ và tăng cường hệ thống quản lý rủi ro tín dụng.
Điều này sẽ đem lại một hệ thống ngân hàng vững mạnh và giúp các ngân hàng Việt Nam định vị chỗ đứng để cạnh tranh trên sân chơi toàn cầu”, chia sẻ từ Trình độ chuyên môn của các đội ngũ kế toán và quản trị rủi ro sẽ ảnh hưởng đến khả năng áp dụng IFRS 9.
Trong khi đó, bà Hạnh nhấn mạnh tầm quan trọng của phương thức đầu - cuối, từ việc cung cấp phân tích chênh lệch và phạm vi ban đầu đến phát triển một giải pháp báo cáo IFRS 9 được thiết kế riêng.
PwC Việt Nam sẽ sử dụng phân tích định lượng tiên tiến để triển khai giải pháp IFRS 9 và sẽ được chuyển giao liên tục thành một quy trình báo cáo hợp lý trong khi đảm bảo doanh nghiệp có các công cụ cần thiết để duy trì và cập nhật báo cáo tài chính theo IFRS 9, qua đó giúp các doanh nghiệp vượt qua tính phức tạp của IFRS 9 và triển khai thành công chuẩn mực tài chính này trong thời gian tới.