Nghị quyết 42: “Gậy thần” sắp hết hiệu lực
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân về đề nghị xây dựng Luật xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Theo đánh giá của NHNN, từ khi Nghị quyết 42 được ban hành, xử lý nợ xấu đạt kết quả tích cực. Tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) đến 31/5/2021 là 425,4 nghìn tỷ đồng (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ hạch toán ngoại bảng cân đối kế toán, nợ xấu đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt được xác định theo Nghị quyết 42), giảm 3,4% so với cuối năm 2020.
Lũy kế từ 15/08/2017 đến 31/5/2021, đã xử lý được 353,81 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 (Không bao gồm nợ xấu xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro). Trung bình mỗi tháng, toàn hệ thống xử lý được hơn 6 nghìn tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết 42 trong 4 năm qua, cao hơn nhiều mức 3,52 nghìn tỷ đồng/tháng so với điểm chưa có Nghị quyết 42.
Đáng chú ý, xử lý nợ xấu bằng hình thức khách hàng tự nguyện trả nợ tăng mạnh, phản ánh ý thức trả nợ của khách hàng đã cải thiện mạnh mẽ (chiếm 39,28% tổng nợ theo Nghị quyết số 42 đã xử lý, cao hơn nhiều so với mức 22,8% giai đoạn 5 năm trước đó, khi chưa có Nghị quyết.
trong quá trình triển khai Nghị quyết vẫn còn tồn tại các khó khăn, vướng mắc liên quan đến cơ sở pháp lý, đến quá trình thực thi. Nguyên nhân của các khó khăn, vướng mắc tập trung ở việc áp dụng pháp luật còn thiếu đồng bộ do có sự khác nhau giữa nội dung Nghị quyết số 42 với pháp luật chuyên ngành. Việc chỉ dừng lại ở Nghị quyết thí điểm đã dẫn đến tâm lý ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành tại một số cơ quan hữu quan. Bên cạnh đó, trong quá trình triển khai, một số quy định tại Nghị quyết cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xử lý nợ xấu của các TCTD, VAMC, gây khó khăn, bất cập trong việc xử lý nợ xấu.
Bên cạnh đó, nghị quyết 42 cũng chỉ còn 1 năm nữa là hết hiệu lực. Trong khi đó, Covid 19 diễn ra từ năm ngoái đến nay đang khiến nợ xấu của các TCTD có khả năng tiếp tục tăng mạnh, khó giữ ở mức dưới 2%.
Với mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào tín dụng như hiện nay, NHNN cho rằng, nếu các khó khăn, vướng mắc trong khuôn khổ pháp lý liên quan đến xử lý nợ xấu (đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 còn diễn biến phức tạp) chưa được tháo gỡ thì sẽ không thể khơi thông được nguồn vốn của hệ thống ngân hàng, qua đó ảnh hưởng đến mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng và tăng trưởng GDP của nền kinh tế.
Điều gì sẽ xảy ra nếu không "luật hóa" Nghị quyết 42?
Nghị quyết 42 chỉ có hiệu lực trong vòng 5 năm, nghĩa là sẽ hết hiệu lực vào ngày 15/8/2022 tới. Toàn bộ cơ chế xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 sẽ chấm dứt, TCTD/VAMC thực hiện việc xử lý nợ theo các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, đến thời điểm này, toàn hệ thống vẫn còn khoảng 425,40 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42, chiếm 42,27% tổng dư nợ xác định theo Nghị quyết số 42.
NHNN lo ngại, việc chấm dứt cơ chế xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 sẽ dẫn đến các khoản nợ cũ chưa xử lý xong trong khi đó nợ xấu mới tiếp tục hình thành do đại dịch Covid-19, sẽ phải kéo dài hoặc không thể xử lý được, đồng thời, TCTD thiếu cơ chế tự xử lý nợ xấu, vấn đề này có thể gây bất ổn cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng.
NHNN chỉ ra hàng loạt tác động tiêu cực tới kinh tế. Thứ nhất, nguy cơ khách hàng sẽ giảm ý thức tự trả nợ, nguyên nhân là quyền chủ nợ hợp pháp của các TCTD sẽ không được bảo vệ. Trong bối cảnh nợ xấu do Covid 19 có nguy cơ tăng, điều này càng đáng lo.
Thứ hai, việc chấm dứt quyền thu giữ tài sản theo Nghị quyết 42, không áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn tại Tòa sẽ làm phát sinh chi phí cho Tòa án do bên xử lý tài sản không có lựa chọn nào khác ngoài Tòa án để tiến hành thu giữ, xử lý TSBĐ khi chủ tài sản không đồng ý, do đó, làm tăng các vụ việc phải giải quyết tại Tòa.
Thứ ba, việc ngừng chính sách áp dụng điều kiện chuyển nhượng tài sản bảo đảm là dự án bất động sản sẽ dẫn đến việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là dự án bất động sản khó khăn.
Thứ tư, việc ngừng chính sách về quyền nhận tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai của khoản nợ có nguồn gốc là khoản nợ xấu gây khó khăn cho hoạt động xử lý nợ xấu của VAMC, không kích thích được việc mua bán, chuyển giao khoản nợ xấu giữa TCTD/VAMC với các cá nhân, tổ chức bên ngoài, qua đó ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của quá trình xử lý nợ xấu, ảnh hưởng đến việc hình thành, phát triển thị trường mua bán nợ.
Thứ năm, nếu TCTD thực hiện thoái lãi dự thu, phân bổ ngay chênh lệch giá trị khoản nợ và giá khoản nợ thì ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính của TCTD, giảm nguồn tài chính để hoạt động kinh doanh, TCTD có thể lâm vào tình trạng đổ vỡ khi số lãi dự thu phải thoái và phần chênh lệch giá trị khoản nợ, giá khoản nợ lớn, gây ảnh hưởng đến an toàn hệ thống TCTD...
Ngoài ra, NHNN cũng chỉ ra hàng loạt tác động xã hội khác khi không luật hóa Nghị quyết 42.
Luật hóa Nghị quyết 42: tăng niềm tin, tránh sự đổ vỡ
Lường trước nhiều nguy cơ có thể xảy ra nếu Nghị quyết 42 hết hiệu lực, NHNN đề nghị Luật hóa các quy định của Nghị quyết 42 dưới hình thức ban hành một Luật về xử lý nợ xấu. Theo đó, các quy định thí điểm tại Nghị quyết 42 được quy định trong Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD, tạo hành lang pháp lý lâu dài, ổn định cho các TCTD xử lý nợ xấu, giảm sự xung đột giữa quy định tại Luật này với các luật chuyên ngành khác khi Luật này được ưu tiên áp dụng.
Theo NHNN, việc ban hành Luật về xử lý nợ xấu sẽ giúp chính sách xử lý nợ xâu tại Nghị quyết 42 được duy trì, giúp TCTD đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu, thu hồi vốn nhanh, khơi thông nguồn vốn cho TCTD hoạt động, đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu của TCTD và tránh các nguy cơ tiềm ẩn của nền kinh tế.
Việc tiếp tục thực hiện các cơ chế liên quan đến quyền thu giữ tài sản đảm bảo, quyền sử dụng đất, chính sách không được kê biên với tài sản cầm cố, thế chấp… giúp TCTD và VAMC đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu, giảm chi phí, giúp doanh nghiệp tăng cơ hội tiếp cận vốn.
Về mặt xã hội, việc ban hành một bộ luật về xử lý nợ xấu không chỉ đơn thuần giúp các TCTD thu hồi nợ mà còn bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn của hệ thống ngân hàng, hệ thống tài chính quốc gia.
Về quyền thu giữ tài sản đảm bảo – vốn tạo thuận lượi cho các tổ chức tín dụng trong thu hồi nợ, xử lý tài sản đảm bảo, tránh tình trạng chủ nợ chây ỳ - song cũng có thể nảy sinh tình trạng lạm dụng quyền. Vì vậy, NHNN đề nghị trong quá trình thu giữ phải có sự tham gia của các cơ quan liên quan để tránh việc tùy tiện trong quá trình thu giữ tài sản.
Việc mở rộng đối tượng được nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của tổ chức sử dụng đất bao gồm cả VAMC và bên mua nợ của TCTD và VAMC với mục đích là thúc đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu, do đó sẽ không ảnh hưởng tới các chính sách về đất đai. Quy định này cũng nhằm thống nhất quan điểm của các cơ quan quản lý và các cơ quan tư pháp (trong quá trình xét xử) nhằm xử lý thống nhất các vụ việc tranh chấp phát sinh, giảm thiểu chi phí về tài chính và thời gian của các bên trong quá trình tham gia tố tụng.
NHN cũng cho rằng, cần đưa vào luật quy định về phân bổ dần lãi dự thu, chênh lệch giữa giá trị khoản nợ và giá bán nợ xấu của tổ chức tín dụng trong khoảng thời gian nhất định, quy định này đảm bảo quyền chủ nợ của bên nhận bảo đảm, đảm bảo quyền tự do thỏa thuận giữa các bên, không làm gia tăng nợ xấu của hệ thống TCTD, không làm xáo trộn hoạt động sản xuất, kinh doanh, của TCTD và khách hàng.
Trên cơ sở đánh giá, NHNN đề xuất phải trình Quốc hội xây dựng “Luật về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập” để xử lý nợ của các TCTD.