Làng nghề Việt trong chuỗi giá trị công nghiệp văn hóa

0:00 / 0:00
0:00
Khi di sản, thiết kế và sáng tạo kết nối với kinh tế thị trường, làng nghề truyền thống không chỉ gìn giữ bản sắc, mà còn tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị văn hóa, sáng tạo toàn cầu.
Làng nghề Việt trong chuỗi giá trị công nghiệp văn hóa

Trong Chiến lược Phát triển công nghiệp văn hóa đến năm 2030, thủ công mỹ nghệ được xếp vào nhóm 12 lĩnh vực trụ cột, phản ánh bước chuyển quan trọng trong tư duy phát triển văn hóa của Việt Nam từ “bảo tồn thuần túy” sang “phát triển dựa trên sáng tạo”, từ việc lưu giữ giá trị sang khai mở tiềm năng kinh tế của di sản.

Đây là hướng đi phù hợp với xu thế quốc tế, nơi những ngành nghề truyền thống được tái định vị như một phần của kinh tế sáng tạo, tạo việc làm, đóng góp GDP và thúc đẩy giao lưu văn hóa.

Ở góc nhìn công nghiệp văn hóa, thủ công mỹ nghệ mang tính chất kép. Một mặt là sản xuất vật thể với nguyên liệu, tay nghề và tiêu chuẩn chất lượng, mặt khác là ngành sáng tạo dựa trên thiết kế, câu chuyện vùng miền và ngôn ngữ thẩm mỹ. Khi sản phẩm được định vị bằng thương hiệu địa phương, thiết kế đương đại và triết lý văn hóa, giá trị thương mại tăng lên gấp nhiều lần. Văn hóa trở thành chất xúc tác tạo giá trị gia tăng, còn sáng tạo giúp di sản được tái sinh sống động hơn bao giờ hết.

Hiện nay, cả nước có 263 nghề truyền thống, 1.975 làng nghề và làng nghề truyền thống được công nhận (gồm 1.308 làng nghề và 667 làng truyền thống). Lực lượng lao động trong ngành nghề nông thôn đạt hơn 2,1 triệu người, tăng 789.000 lao động so với năm 2019. Thu nhập bình quân đạt 4 - 5 triệu đồng/người/tháng. Đáng chú ý, nhóm hàng thủ công mỹ nghệ chiếm tới 35% kim ngạch xuất khẩu hàng năm, đồng thời mở ra cơ hội phát triển du lịch trải nghiệm, quảng bá sản phẩm và văn hóa làng nghề.

Đây là nguồn lực quý giá để phát triển thành ngành công nghiệp văn hóa khi có sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và đổi mới sáng tạo. Quyết định 801/QĐ-TTg về Chương trình Bảo tồn và Phát triển làng nghề Việt Nam đặt mục tiêu khôi phục hơn 100 nghề có nguy cơ mai một, phát triển 208 làng nghề và nâng hiệu quả hoạt động tại hơn 80% làng nghề truyền thống, đồng thời hướng đến kim ngạch xuất khẩu 6 tỷ USD hàng thủ công mỹ nghệ vào năm 2030.

Mỗi làng nghề là một không gian sáng tạo đặc biệt, nơi các nghệ nhân vừa là người chế tác, vừa là người lưu giữ ký ức văn hóa. Từ tre, đất, lụa, thổ cẩm, gỗ hay sơn mài, những sản phẩm thủ công hiện lên như câu chuyện thu nhỏ về vùng đất và con người Việt Nam.

Tuy nhiên, ngành vẫn đối mặt với không ít thách thức. Hạn chế lớn nhất nằm ở thiết kế, phần lớn sản phẩm vẫn dựa vào mô típ truyền thống, ít đổi mới về công năng, màu sắc hay nhận diện thương hiệu. Không ít làng nghề còn sao chép mẫu, dẫn đến vi phạm sở hữu trí tuệ và làm phai nhạt bản sắc.

Bên cạnh đó, nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, thiếu kỹ năng marketing và chưa tiếp cận trực tiếp với khách hàng quốc tế. Việc phụ thuộc vào trung gian khiến giá trị gia tăng bị hạn chế. Trong môi trường thương mại toàn cầu, một sản phẩm chỉ có thể cạnh tranh khi mang theo câu chuyện văn hóa rõ ràng, bảo đảm chất lượng và được hỗ trợ bởi hệ sinh thái phân phối chuyên nghiệp.

Về công nghệ, dù bản chất là lao động thủ công, nhiều khâu phụ trợ như xử lý nguyên liệu, hoàn thiện bề mặt, đóng gói hay truy xuất nguồn gốc vẫn cần máy móc và kỹ thuật hiện đại. Sự chậm đổi mới trong quy trình khiến chi phí cao và chất lượng thiếu đồng đều. Muốn bứt phá, ngành phải đồng thời nâng cấp thiết kế dựa trên di sản và hiện đại hóa quy trình hỗ trợ sản xuất.

Để thủ công mỹ nghệ thực sự trở thành ngành công nghiệp văn hóa mũi nhọn, cần triển khai đồng bộ từ xây dựng thương hiệu quốc gia đến đổi mới sáng tạo. Mỗi sản phẩm phải mang bản sắc địa phương và câu chuyện văn hóa rõ nét để nâng tầm giá trị và thoát khỏi vị trí thấp trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Chuyển đổi số sẽ mở rộng không gian sáng tạo, từ số hóa tri thức nghề, triển lãm trực tuyến đến thương mại điện tử và đào tạo kỹ năng số cho thế hệ trẻ. Kết hợp với du lịch, sản phẩm thủ công không chỉ là hàng hóa mà còn là trải nghiệm văn hóa trọn vẹn.

Đồng thời, việc hoàn thiện cơ chế chính sách về vốn, thuế, đất đai và sở hữu trí tuệ sẽ tạo nền tảng để nghệ nhân và doanh nghiệp mạnh dạn đổi mới. Khi thủ công mỹ nghệ được định vị đúng tầm, di sản không những được bảo tồn mà còn trở thành động lực xây dựng nền kinh tế văn hóa hiện đại và giàu bản sắc.

Phương Linh
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục