Tuần trước, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã bước vào chu kỳ cắt giảm lãi suất, tham gia vào một quá trình đã bắt đầu tại Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), Ngân hàng trung ương Anh (BoE) và các ngân hàng trung ương khác.
Với mức cắt giảm lãi suất 50 điểm cơ bản lớn hơn dự kiến của Fed, một số nhà phân tích cho rằng điều này có thể đã góp phần mở đường cho Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) công bố gói kích thích lớn nhất kể từ đại dịch vì sẽ có ít lo ngại hơn về cách thức gói kích thích này có thể ảnh hưởng đến giá trị đồng nhân dân tệ.
Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu chính sách nới lỏng toàn cầu có thể tiếp tục trong bao lâu và đến mức nào khi các nhà hoạch định chính sách tìm hiểu liệu lãi suất cần thiết để kiểm soát lạm phát và nền kinh tế tăng trưởng hiện có cao hơn mức lãi suất cực thấp phổ biến trước đại dịch hay không.
Trong những năm trước đại dịch, khi lãi suất của Fed dao động gần mức 0 trong nhiều năm và châu Âu bước vào lãi suất âm, Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết tuần trước rằng ông cảm thấy như thế giới đó đã biến mất mãi mãi.
"Giờ thì điều đó đã quá xa vời, tôi cảm thấy chúng ta sẽ không quay lại thời điểm đó nữa…Với tôi, lãi suất trung lập có lẽ cao hơn đáng kể so với thời điểm đó. Nó cao đến mức nào? Tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể biết... Chúng ta chỉ biết điều đó thông qua các hoạt động của nó", ông Powell cho biết.
Những "hoạt động" đó sẽ bao gồm lạm phát ở mục tiêu 2% mà tất cả các ngân hàng trung ương lớn đều hướng tới, và tỷ lệ thất nghiệp, tăng trưởng tiền lương và tăng trưởng kinh tế đều gần với tiềm năng phù hợp với tốc độ tăng giá đó.
Trong số các ngân hàng trung ương lớn, chỉ có Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) không nới lỏng chính sách tiền tệ để tiến tới điểm đó, mà thay vào đó là thực hiện thắt chặt sau khi đã thành công trong việc nâng lạm phát.
Đối với Fed, trong các dự báo được công bố vào tuần trước, điểm dừng trung bình cho việc cắt giảm lãi suất mà các quan chức đề cập là 2,9%, đạt được vào cuối năm 2026, nhưng các dự báo riêng lẻ trải rộng trong phạm vi từ 2,4% đến cao tới 3,9%. Thống đốc Fed Michelle Bowman cho biết, lãi suất trung lập "cao hơn nhiều so với trước đây".
Điều kiện tài chính đã thay đổi
Dữ liệu và cuộc tranh luận xung quanh xu hướng của lãi suất diễn ra như thế nào trong những tháng tới sẽ đóng vai trò trung tâm trong việc thiết lập lại toàn cầu về chi phí đi vay. Tại Mỹ, lãi suất thế chấp cho khoản vay mua nhà trong 30 năm thường ở mức khoảng 3% trong thập kỷ trước đại dịch và tăng vọt lên gần 8% khi Fed thắt chặt chính sách.
Lãi suất này hiện đã giảm xuống còn 6% và mức giảm không có khả năng mạnh như mức tăng. Một nghiên cứu gần đây của Fed cho thấy, lãi suất thế chấp có thể không giảm xuống dưới 5%.
Hội đồng quản trị ECB không có ước tính lãi suất trung lập, nhưng các quan chức đã công bố một báo cáo trong năm nay cho thấy lãi suất vào khoảng 2%.
Bên cạnh đó, BoE không công bố ước tính chính xác về mức lãi suất trung lập. Tuy nhiên, khảo sát của các nhà phân tích gần đây nhất của ngân hàng trung ương cho thấy các nhà phân tích dự báo lãi suất ở mức 3,5%.
Vào tháng 8, sau khi BoE cắt giảm lãi suất xuống 5% lần đầu tiên kể từ năm 2020 từ mức cao nhất trong 16 năm là 5,25%, Thống đốc BoE Andrew Bailey cho biết, mức lãi suất thấp có khả năng đã kết thúc.
"Không có khả năng chúng ta sẽ quay lại thế giới như từng trải vào giữa năm 2009, sau cuộc khủng hoảng tài chính và thời điểm chúng ta bắt đầu tăng lãi suất… Lý do là thế giới thực sự bị chi phối bởi những cú sốc rất lớn tác động đến thị trường hàng hóa và lao động, thay đổi động lực đầu tư và cung ứng toàn cầu, và được định hình bởi các sáng kiến tài khóa bao gồm chính sách công nghiệp mới tại Mỹ”, Thống đốc BoE Andrew Bailey cho biết.
Theo Jason Thomas, Giám đốc nghiên cứu và đầu tư toàn cầu của Carlyle, những yếu tố đó cùng với nhân khẩu học, năng suất lao động và các xu hướng cơ bản khác có thể có nghĩa là áp lực giá cả sẽ mạnh hơn và lãi suất sẽ cao hơn trong tương lai.
“Các ngân hàng trung ương không đặt ra chính sách trong tình trạng tự lựa chọn… Thế giới đã thay đổi kể từ năm 2019 theo những cách có khả năng đảm bảo rằng áp lực giá cả sẽ xuất hiện trước khi lãi suất đạt đến mức đã thịnh hành trong thời kỳ trước đại dịch", ông Jason Thomas cho biết.