Tỷ giá dự báo giảm dần
Ông Suan Teck Kin, Giám đốc Khối Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB (Singapore)
Với kết quả tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong 9 tháng đầu năm 2025 và chưa có dấu hiệu giảm tốc, Ngân hàng Nhà nước hiện còn rất ít dư địa để tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ.
Trong khi đó, áp lực lạm phát vẫn hiện hữu, với mức lạm phát tháng 9 đạt 3,38% so với cùng kỳ năm trước, tăng nhẹ so với mức 3,24% của tháng trước đó. Tính từ đầu năm tới nay, lạm phát trung bình đạt 3,3% tổng thể và 3,2% cơ bản, trong đó lạm phát cơ bản đã vượt mức của năm 2024 (2,9%) và năm 2023 (3%).
Thị trường ngoại hối cũng là một yếu tố quan trọng tác động tới việc điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước.
Đồng Việt Nam (VND) là đồng tiền mất giá mạnh thứ hai tại châu Á trong 9 tháng đầu năm 2025, giảm 3,55% so với đồng USD, chỉ thấp hơn mức giảm 3,58% của đồng rupee Ấn Độ và cao hơn một chút so với mức giảm 3,38% của đồng rupiah Indonesia.
Ngược lại, các đồng tiền trong khu vực hưởng lợi từ xu hướng suy yếu của đồng USD, với mức tăng dao động từ 7,65% đối với đồng TWD (Đài Loan - Trung Quốc) đến 2,5% đối với đồng CNY (Nhân dân tệ ngoài Trung Quốc Đại lục).
| |
Ông Suan Teck Kin |
VND hiện vẫn duy trì gần mức thấp kỷ lục 26.436 đồng/USD ghi nhận trong tháng 8/2025, trong bối cảnh Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh tỷ giá tham chiếu theo hướng làm giảm giá đồng nội tệ.
Mặc dù mức độ tương quan giữa tỷ giá USD/VND và chỉ số DXY (sức mạnh đồng USD) khá hạn chế, nhưng VND có thể sẽ phản ứng chậm hơn so với các đồng tiền trong khu vực trước xu hướng suy yếu của USD, đặc biệt khi Fed tiến hành các đợt cắt giảm lãi suất tiếp theo.
Trong bối cảnh đó, chúng tôi duy trì quan điểm thận trọng đối với triển vọng của VND và điều chỉnh dự báo tỷ giá USD/VND giảm lần lượt là 26.400 đồng/USD trong quý IV/2025; 26.300 đồng/USD trong quý I/2026; 26.200 đồng/USD trong quý II/2026 và 26.100 đồng/USD trong quý III/2026.
Ngân hàng phải chấp nhận NIM tiếp tục thu hẹp
Ông Phạm Hồng Hải, Tổng giám đốc OCB
Chỉ còn khoảng 1 tháng nữa là kết thúc năm tài chính 2025 và nhu cầu vốn tín dụng của doanh nghiệp trên thị trường rất lớn. Thông thường, trong mùa kinh doanh cao điểm cuối năm, nhu cầu vốn của doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ tăng cao.
Do đó, các ngân hàng phải chuẩn bị tốt thanh khoản để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, nhất là đối với doanh nghiệp.
Mặt khác, các ngân hàng cũng phải lựa chọn được khách hàng phù hợp, bởi trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định như hiện nay, vẫn có những doanh nghiệp gặp khó khăn, nhất là khi thị trường còn chịu tác động của các yếu tố bên ngoài.
Hiện tại, các ngân hàng đang đối diện với việc chi phí huy động vốn tăng bởi phải thu hút thanh khoản vào nhằm đáp ứng tốt nhu cầu vốn của khách hàng cuối năm.
Trong khi đó, lãi suất cho vay ra khó tăng, nhất là khi những doanh nghiệp có lịch sử tín dụng tốt không phải nhiều, nên các ngân hàng đang phải cạnh tranh khốc liệt để tìm được khách hàng tốt.
Do đó, chúng tôi kỳ vọng mặt bằng lãi suất tiết kiệm không tăng cao trong thời gian tới và nhiều khả năng ngân hàng cũng phải chấp nhận biên lãi ròng (NIM) tiếp tục thu hẹp do chi phí đầu vào tăng cao hơn chi phí đầu ra.
| |
Ông Phạm Hồng Hải. |
Tôi nghĩ rằng, đây là bài toán chưa có câu trả lời cuối cùng. Bởi hiện tại, các thành viên hội đồng của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vẫn có những ý kiến trái chiều xung quanh việc tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ thời gian tới trong bối cảnh lạm phát còn cao, lao động việc làm còn yếu.
Vì thế, theo tôi, xác suất Fed giảm thêm lãi suất USD trong tháng 12/2025 là có, nhưng không phải chắc chắn trong thời điểm hiện nay.
Còn đối với áp lực lên tỷ giá từ nay đến cuối năm tôi cho rằng vẫn còn bởi dòng vốn gián tiếp nước ngoài đang chảy ra khỏi Việt Nam, nên khi nào xu hướng quay ngược trở lại, chúng ta mới kỳ vọng tỷ giá giảm bớt sức ép thời gian tới.
Chính sách tiền tệ còn rất ít dư địa để nới lỏng thêm
TS. Châu Đình Linh, Trường đại học Ngân hàng TP.HCM
Việc duy trì mặt bằng lãi suất thấp trong phần lớn năm 2025 đã tạo điều kiện cho tín dụng tăng trưởng mạnh, nhưng đồng thời làm nảy sinh sự mất cân đối cung - cầu vốn trong hệ thống, nhất là trong thời điểm cao điểm cuối năm.
Lãi suất tiết kiệm tăng gần đây được xem là “cơn gió ngược” trong điều kiện thuận. Áp lực huy động vốn bán lẻ đã chuyển hóa thành căng thẳng thanh khoản ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Việc các ngân hàng đẩy mạnh huy động để bổ sung thanh khoản khiến dòng vốn dịch chuyển từ thị trường liên ngân hàng sang thị trường 1, qua đó kéo lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh.
Dữ liệu cho thấy, ngày 24/11/2025 ghi nhận sự gia tăng đột biến của lãi suất liên ngân hàng VND, với kỳ hạn qua đêm (ON) tăng mạnh 1,4 điểm phần trăm lên 5,8%/năm và các kỳ hạn 1 tuần, 2 tuần đều ở mức 6%/năm.
Mức tăng vọt này vượt xa mức lãi suất hợp lý 4,45%/năm ghi nhận vào cuối tháng 10/2025, cho thấy các ngân hàng buộc phải trả chi phí cao hơn để vay mượn lẫn nhau.
Để giải tỏa cơn khát thanh khoản đột ngột đó, Ngân hàng Nhà nước đã ngay lập tức can thiệp mạnh mẽ thông qua nghiệp vụ thị trường mở (OMO), khi bơm ròng khoảng 30.500 tỷ đồng với lãi suất 4%/năm, tránh để chi phí vốn ngắn hạn tăng quá cao làm ảnh hưởng đến quyết định lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng.
Thực tế cho thấy, thanh khoản của một số ngân hàng quy mô nhỏ đang cần được bổ sung. Vả lại, sức ép tăng trưởng tín dụng cao, nhất là trong những tháng cuối năm buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để huy động vốn.
Hiện tại, tốc độ tăng trưởng huy động vốn của hệ thống ngân hàng chậm hơn đáng kể so với tăng trưởng cho vay, chỉ đạt khoảng 9,6-10,2% tính đến cuối tháng 11/2025.
Khoảng cách chênh lệch lớn giữa tăng trưởng cho vay và huy động (gần 4-5,5 điểm phần trăm) là dấu hiệu rõ ràng nhất của áp lực thanh khoản tích lũy trong hệ thống.
Hệ quả của sự mất cân đối này là tỷ lệ cho vay trên huy động (LDR) tăng cao, cho thấy các ngân hàng sử dụng gần hết khả năng cho vay dựa trên nguồn vốn huy động nội địa, buộc họ phải tìm kiếm các nguồn vốn bổ sung hoặc phải tăng lãi suất để kéo tiền gửi về nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay tăng mạnh vào dịp cuối năm, đặc biệt khi mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm được dự báo có thể đạt 19-20%.
Thêm vào đó, tỷ giá hiện còn chịu áp lực cũng phần nào gây sức ép lên thanh khoản của một số ngân hàng khiến lãi suất tiền gửi tăng.
Vì thế, Ngân hàng Nhà nước đang nỗ lực điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất ở mức phù hợp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế năm 2025. Nhìn chung, chính sách tiền tệ của Việt Nam đã được duy trì nới lỏng trong thời gian dài để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, song đến thời điểm này còn rất ít dư địa để nới lỏng thêm.
Chi phí đầu vào tăng thì lãi suất cho vay đầu ra cũng sẽ tăng theo, nhưng nếu chúng ta giữ được lãi suất tăng ở mức phù hợp thì lãi suất cho vay ngắn hạn cũng khó tăng.
Tuy nhiên, trong dài hạn, lãi suất cho vay trung - dài hạn khó có thể duy trì thấp. Nếu ngân hàng nào có tỷ lệ CASA tốt, phát hành trái phiếu huy động nguồn vốn trung - dài hạn giá hợp lý sẽ có điều kiện để giữ ổn định mặt bằng lãi suất cho vay.
| |
TS. Châu Đình Linh |
Nếu Fed giảm thêm lãi suất trong tháng 12 này sẽ là điều kiện thuận lợi cho chính sách tiền tệ trong nước khi lãi suất và tỷ giá có thể giảm bớt áp lực, nhất là trong giai đoạn cao điểm cuối năm.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, chúng ta chưa thể biết chắc chắn hoặc dự báo được có giảm hay không. Trường hợp Fed tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ sẽ giúp giảm áp lực lên tỷ giá VND/USD, làm giảm sức hấp dẫn việc nắm giữ ngoại tệ, tạo điều kiện cho dòng vốn quốc tế tìm đến các thị trường mới nổi có lợi suất hấp dẫn hơn như Việt Nam.
Quan trọng hơn, áp lực tỷ giá giảm bớt giúp giải phóng Ngân hàng Nhà nước khỏi nhu cầu phải tăng lãi suất điều hành để ứng phó với biến động ngoại tệ.
Điều này cho phép nhà điều hành tập trung hoàn toàn vào việc sử dụng các công cụ linh hoạt để giải quyết căng thẳng thanh khoản nội tại, mà vẫn bảo toàn chính sách hỗ trợ tăng trưởng thông qua lãi suất cho vay thấp.
Xu hướng nới lỏng chính sách tiền tệ của Fed được duy trì sẽ là yếu tố hỗ trợ chủ đạo cho VND. Tỷ giá USD/VND có khả năng hạ nhiệt trong quý I-II/2026 nếu Fed tiếp tục chu kỳ cắt giảm lãi suất như kỳ vọng.
Lãi suất huy động sẽ không tăng quá 1%/năm so với đầu năm
TS. Huỳnh Trung Minh, Chuyên gia tài chính, tiền tệ
Mặt bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm tăng trong thời gian gần đây không hẳn do hệ thống ngân hàng thiếu thanh khoản, mà chỉ tăng cục bộ ở một số nhà băng. Còn thực tế, thanh khoản của những ngân hàng lớn đang khá tốt để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng tăng trong mùa kinh doanh cao điểm cuối năm.
| |
TS. Huỳnh Trung Minh |
Tuy nhiên, với sự cạnh tranh hiện nay, khả năng mặt bằng lãi suất huy động sẽ còn nhích nhẹ từ nay đến cuối năm, nhưng không tăng quá 1%/năm so với đầu năm.
Bởi hiện tại, NIM của các ngân hàng chịu áp lực thu hẹp do phải giữ ổn định mặt bằng lãi suất cho vay ở mức thấp để hỗ trợ nền kinh tế, trong khi chi phí huy động vốn đầu vào tăng về cuối năm.
Quả thực, khi chi phí vốn tăng lên, lãi suất cho vay bị kìm hãm sẽ tạo áp lực đáng kể lên NIM của ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng tính đến cuối tháng 10/2025 đã đạt 15,1% so với đầu năm, gần chạm mục tiêu 16% đặt ra cho cả năm.